Tác giả: Vũ Nhân Tự điển là gì? Tự điển là loại sách công cụ ngữ văn thường dùng hàng ngày. Mỗi khi mọi người gặp một số chữ Hán mình không biết hoặc không hiểu, sẽ mở tự điển ra để tra cứu, trong đó sẽ có âm đọc, ý nghĩa và cách dùng... của chữ đó. Vậy lai lịch của hai chữ “Tự điển” ra sao ? Từ năm 1716 về trước, Trung Quốc vẫn chưa có “Tự điển” này. Vậy trong xã hội cổ đại kéo dài, lẽ nào Trung Quốc lại không có lấy một bộ thư tịch nào, để có thể tra cứu âm đọc và ý nghĩa của chữ Hán ? Đương nhiên là có, nhưng nó chưa được gọi là “Tự điển”. Loại thư tịch mà Trung Quốc thời cổ đại có thể dùng để tra cứu âm đọc và ý nghĩa của chữ Hán, gồm hai loại lớn. Loại thứ nhất gọi là “Tự thư”, bộ ra đời sớm nhất là Thuyết văn giải tự, thành sách vào năm Đông Hán Hòa Đế Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên 100), tác giả là Hứa Thận. Một loại gọi là Vận thư, bộ sớm nhất hiện còn giữ được là Thiết vận, thành sách vào năm Tùy Văn Đế Nhân Thọ nguyên niên (Công nguyên 601), tác giả là Lục Pháp Ngôn. Bộ trướ
Phật giáo bắt đầu chính thức suy tàn khi vương triều Kushan bị sụp đổ, và vương triều Bà la môn Gupta chiếm Magadha vào đầu thế kỷ thứ Tư. Nhiều việc bức hại Phật tử bắt đầu xẩy ra. Thành và đại học Nalanda (Na Lan Đà) bị khủng bố. Người Bà la môn sát hại Aryadeva (A Li Da Đề Bà), đại đệ tử của Narajuna (Long Thọ Bồ tát), vì họ thua ông trong việc tranh luận về tôn giáo. Rồi vua Sasanka đuổi tất cả tăng chúng Phật giáo ra khỏi Kusinagara (Câu Thi Na), là nơi Phật Thích Ca nhập Niết bàn. Ông ta cũng cho bật gốc và đốt cây Bồ đề ở Bodhi Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) ra tro, rồi thay thế bằng một tượng Shiva. Đại sư Trung Hoa Pháp Hiền khi đến Tây Trúc từ năm 399 đến 414 thấy Phật Giáo còn được hưng thịnh ở vài nơi như Kapilavasu (Ca Tỳ La Vệ) và Gaya (Già da). Nhưng nhìn tổng thể thì Phật giáo ở Ấn Độ lúc bấy giờ đã suy vi nhiều rồi. Rồi người Hung Nô tràn vào Gandhara (Kabul – Càn Đà) cuối thế kỷ thứ Năm. Các tu viện và di tích thiêng liêng của Phật giáo ở vùng Đông-bắc Ấn Độ bị tiêu diệt. Tăn