Chuyển đến nội dung chính

Thành ngữ trong sử ký Tư Mã Thiên

(Hầu hết lời dịch và chú thích dưới đây tôi chép trong bộ Sử Kí Tư Mã Thiên do Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê giới thiệu và chú dịch – Nxb Văn học, năm 2011)

1. Sở tuy tam hộ, vong Tần tất Sở. (Hạng Vũ bản kỉ) 

楚雖三戶,亡秦必楚也。(項羽本紀)

(Người Sở tuy chết nhiều), chỉ còn ba hộ, nhưng diệt Tần sau này tất là Sở.

 

2. Nhân vi đao trở, ngã vi ngư nhục. (Hạng Vũ bản kỉ)

人為刀俎,我為魚肉。(項羽本紀)

Người ta là dao, là thớt, ta là thịt, là cá.

3. Vương hầu tướng tướng trữ hữu chủng hồ! (Trần Thiệp thế gia)

王侯將相寧有種乎!(陳涉世家)

Vương, hầu, tướng, tướng, há cứ phải là con dòng cháu giống!

 

4. Sinh ngã giả phụ mẫu, tri ngã giả Bão tử. (Quản – Án liệt truyện)

生我者父母,知我者鲍子。(管晏列傳)

Sinh ta ra là cha mẹ, hiểu biết ta là Bão tử.

5. Tương thuận kì mĩ, khuông cứu kì ác, cố thượng hạ năng tương thân dã. (Quản – Án liệt truyện)

將順其美,匡救其惡,故上下能相親也。(管晏列傳)

Thuận giúp chỗ hay (của vua), sửa chữa chỗ xấu (của vua), cho nên trên dưới thân nhau được. 

 

6. Trí giả thiên lự, tất hữu nhất thất; ngu giả thiên lự, tất hữu nhất đắc. (Hoài Âm Hầu liệt truyện) 

智者千慮,必有一失;愚者千慮,必有一得。(淮陰侯列傳)

Kẻ trí giả tính ngàn điều, tất cũng có một điều sai; kẻ ngu độn tính ngàn điều, tất cũng được một điều đúng.

 

7. Dũng lược chấn chủ giả thân nguy, công cái thiên hạ giả bất thưởng. (Hoài Âm Hầu liệt truyện)

勇略震主者身危,功蓋天下者不賞。(淮陰侯列傳)

Dũng lược làm cho nhân chủ gờm thì thân nguy, công trạng bao trùm thiên hạ thì không thể thưởng cho xứng được.

8. Thừa nhân chi xa giả tái nhân chi nguy, y nhân chi y giả hoài nhân chi ưu, thực nhân chi thực giả tử nhân chi sự. (Hoài Âm Hầu liệt truyện) 

乘人之車者載人之危, 衣人之衣者懷人之憂, 食人之食者死人之事。 (淮陰侯列傳)

Ngồi xe của người thì “chở” hoạn nạn cho người; mặc áo của người thì “ôm” ưu tư cho người, ăn cơm của người thì “sống chết” cho việc của người.

 

9. Kì kí chi cục trục, bất như nô mã chi an bộ. (Hoài Âm Hầu liệt truyện) 

騏驥之跼躅,不如駑馬之安步。(淮陰侯列傳)

Giống kí kì (ngựa hay) mà loanh quanh lẩn quẩn thì không bằng con ngựa tồi mà vững bước tiến.

 

10. Công giả nan thành nhi dị bại, thời giả nan đắc nhi dị thất dã. (Hoài Âm Hầu liệt truyện) 

功者難成而易敗,時者難得而易失也。(淮陰侯列傳)

Công, khó thành mà dễ hỏng; thời, khó được mà dễ mất.

11. Giảo thỏ tử, lương cẩu phanh; cao điểu tận, lương cung tàng; địch quốc phá, mưu thần vong. (Hoài Âm Hầu liệt truyện)

狡兔死,良狗烹;高鳥盡,良弓藏;敵國破,謀臣亡。(淮陰侯列傳)

Con thỏ tin khôn mà chết, thì con chó săn giỏi bị luộc; đám chim bay cao mà hết, thì chiếc cung tốt xếp xó; nước địch mà phá xong, thì người mưu thần chết.

 

12. Phú quý giả tống nhân dĩ tài, nhân nhân giả tống nhân dĩ ngôn. (Khổng Tử thế gia)

富貴者送人以財,仁人者送人以言。(孔子世家)

Người giàu sang tiễn nhau bằng tiền bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói.[1] 

 

13. Ta hồ! Yến tước an tri hồng hộc chi chí tai! (Trần Thiệp thế gia)

嗟呼!燕雀安知鴻鵠之志哉!(陳涉世家)

Chao ôi! Con yến, con sẻ biết thế nào được chí con hồng, con hộc![2]

14. Năng ngôn giả vị tất năng hành, năng hành giả vị tất năng ngôn. (Tôn Tử – Ngô Khởi liệt truyện)

能言者未必能行,能行者未必能言。(孫子吳起列傳)

Người nói hay chưa chắc làm giỏi, người làm giỏi chưa chắc nói hay.

 

15. Phản thính chi vị thông, nội thị chi vị minh, tự thắng chi vị cường. (Thương Quân liệt truyện)

反聽之謂聰,內視之謂明,自勝之謂強。(商君列傳)

“Phản thính”[3] là sáng tai, “nội thị”[4] là sáng mắt, tự thắng gọi là sức mạnh.

16. Thiên dương chi bì, bất như nhất hồ chi dịch; thiên nhân chi nặc nặc, bất như nhất sĩ chi ngạc ngạc. (Thương Quân liệt truyện)

千羊之皮,不如一狐之腋;千人之諾諾,不如一士之諤諤。(商君列傳)

Ngàn bộ da dê chẳng quí bằng miếng da nách cáo, ngàn người chỉ biết vâng vâng dạ dạ chẳng quí bằng một kẻ sĩ dám nghiêm nét mặt mà nói thẳng.

 

17. Mạo ngôn hoa dã, chí ngôn thật dã, khổ ngôn dược dã, cam ngôn tật dã. (Thương Quân liệt truyện)

貌言華也,至言實也,苦言藥也,甘言疾也。(商君列傳)

Lời đưa đẩy là hoa[5], lời chính đáng là quả[6], lời cay đắng là thuốc[7], lời ngọt xớt là bệnh[8].

 

18. Thị đức giả xương, thị lực giả vong. (Thương Quân liệt truyện)

恃德者昌,恃力者亡。(商君列傳)

Trông cậy vào đức thì thịnh vượng, trông cậy vào sức thì suy vong.

 

19. Tam thốn chi thiệt, cường ư bách vạn chi sư. (Bình Nguyên Quân – Ngu Khanh liệt truyện)

三寸之舌,強於百萬之師。(平原君虞卿列傳)

(Dùng) ba tấc lưỡi mà mạnh hơn trăm vạn quân.

 

20. Tướng tại ngoại, chủ lệnh hữu sở bất thụ, dĩ tiện quốc gia. (Bình Nguyên Quân – Ngu Khanh liệt truyện)

將在外,主令有所不受,以便國家。(平原君虞卿列傳)

Tướng ở ngoài tiền tuyến, lệnh vua ra, có thể không theo, vì lợi ích của nhà nước.

 

21. Cử thế hỗn trọc ngã độc thanh, chúng nhân giai túy ngã độc tỉnh, thị dĩ kiến phóng.(Khuất Nguyên – Cổ Sinh liệt truyện)

舉世混濁我獨清, 眾人皆醉我獨醒,是以見放。(屈原賈生列傳)

Đời đục, mình ta trong, đời say mình ta tỉnh, cho nên ta bị ruồng bỏ.

 

22. Tân mộc giả tất đạn quan, tân dục giả tất chấn y. (Khuất Nguyên – Cổ Sinh liệt truyện) 

新沐者必彈冠,新浴者必振衣。(屈原賈生列傳)

Mới gội đầu thì ắt phải sửa mũ cho ngay ngắn, mới tắm rửa thì ắt phải xốc áo lại cho chỉnh tề.

23. Đắc hoàng kim bách cân, bất như đắc Quí Bố nhất nặc. (Quí Bố liệt truyện)

得黃金百斤,不如得季布一諾。(季布欒布列傳)

Được vàng trăm cân, chẳng bằng được Quí Bố “ừ” cho một tiếng.

 

24. Đào lí bất ngôn, hạ tự thành hề. (Lí tướng quân liệt truyện) 

桃李不言,下自成蹊。(李將軍列傳)

Quả đào, quả mận không biết nói (không tự khoe ngọt, khoe ngon), vậy mà bên dưới, mặt đất vẫn hằn lối đi. (Người ta vẫn biết đào, mận ngon ngọt, nên tìm đến hái). 

 

25. Nhất tử nhất sinh, nãi tri giao tình; nhất bần nhất phú nãi tri giao thái; nhất quí nhất tiện, giao tình nãi kiến. ( Cấp – Trịnh liệt truyện)

一死一生,乃知交情;一貧一富乃知交態;一貴一賤,交情乃見。 (汲鄭列傳)

Chơi với nhau, đến lúc một người sống, một người chết, mới thấy rõ tình bạn; đến lúc một người nghèo, một người giàu, mới thấy rõ thói bạn; đến lúc một người sang, một người hèn, tình bạn bấy giờ mới hiển hiện.

 

26. Pháp lệnh giả trị chi cụ, nhi phi chế trị thanh trọc chi nguyên dã. (Khốc lại liệt truyện)

法令者治之具,而非制治清濁之源也。 (酷吏列傳)

Pháp lệnh là thứ khí cụ để trị nước chứ đâu phải ngọn nguồn trong hay đục của một chế độ chính trị tốt hay xấu.

 

27. Tửu cực tắc loạn, lạc cực tắc bi. (Hoạt kê liệt truyện)

酒極則亂,樂極則悲;萬事盡然極,極之而衰。(滑稽列傳)

Rượu uống tận độ thì sinh bậy, vui đến tận độ thì sinh buồn.

 

28. Bất phi tắc dĩ, nhất phi xung thiên; bất minh tắc dĩ, nhất minh kinh nhân. (Hoạt kê liệt truyện)

不飛則已,一飛衝天;不鳴則已,一鳴驚人。(滑稽列傳)

Không bay thì thôi, đã bay thì vút tận trời, không hót thì thôi, đã hót thì người phải kinh ngạc. 

 

29. Kì ngôn tất tín, kì hành tất quả, kì nặc tất thành. (Du hiệp liệt truyện) 

其言必信,其行必果,其諾必誠。(游俠列傳)

Đã nói là giữ lời, đã làm là làm kì được, đã hứa thì thực hành.

——————–

[1] Lời dịch này là của Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Khổng Tử. Trong bộ Sử Kí Tư Mã Thiên, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê không dịch đoạn Khổng Tử yết kiến Lão Tử ở Lạc ấp. (Cá Vàng).

[2] Con yến, con sẻ ví với hạng người tầm thường thiển cận; con hồng, con hộc tượng trưng hạng người có chí lớn.

[3] Lắng nghe trở lại lời nói của mình.

[4] Nhìn bên trong. “Phản thính” và “nội thị” đều có nghĩa là “tự tỉnh” là xét lại mình.

[5] Ý nói: “Lời đưa đẩy thì bóng bẩy”.

[6] Ý nói: “Lời chính đánh thì chân thành”.

[7] Ý nói: “Lời cay đắng thì sửa được nết hư”.

[8] Ý nói: “Lời ngọr xớt thì làm cho nguy khốn”.

By FB Goldfish

Nhận xét

  1. TAM HỘ VONG TẦN (三户亡秦): Ví tuy người ít sức ít, nhưng chỉ cần quyết tâm cố gắng, cũng có thể tiêu diệt quân địch.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi

Hán Việt:  Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi (情人眼里出西施 - cing4 jan4 ngaan5 leoi5 ceot1 sai1 si1) Dịch nghĩa : trong mắt kẻ si tình, người tình luôn đẹp nhất. Chú thích: Tây Thi (chữ Hán: 西施 - sai1 si1 ), còn gọi là Tây Tử (西子), là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là Trầm ngư (沉魚).  

Nhất ngôn cửu đỉnh, tứ mã nan truy

Trên Yahoo hỏi đáp có câu trả lời hay quá, đăng lên cho mọi người tham khảo: Quân tử là từ dùng để chỉ những người biết cách xử thế, có học vấn trong xã hội phong kiến. Khái niệm này do Khổng Tử đưa ra để dạy con người biết cử xử, ăn ở, đối đãi giữa người với người, người với xã hội, người với thiên nhiên. Ví dụ như "Tam cương ngũ thường", "Tam cương" tức là 3 mối ràng buộc về mặt quan hệ trong xã hội gồm "Quân - Sư - Phụ" tức là "Vua - Thày dạy - Cha". Tam cương dạy người ta trên kính dưới nhường, là 3 loại người mà người quân tử phải thờ phụng, trung hiếu. Còn "Ngũ thường" tức là Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín. Người quân tử phải biết yêu thương đồng loại (Nhân), phải có phép tắc tôn ti (Lễ), phải có tình nghĩa, phải có trí tuệ (tức là còn phải biết đi học và xử lý tình huống) và cuối cùng là phải biết giữ lời hứa (Tín). Xét về nghĩa đen thì còn có thể hiểu "Quân tử" là con vua, hoặc cũng có thể hiểu là Người (

Thiên kim nan mãi bất hồi đầu

Phiên âm: 千金难买一回头 Dịch nghĩa:  Ngàn vàng không mua được một lần quay đầu sám hối. Lời bình: "có nghĩa là thời khắc qua rồi không lấy lại được,do đó nên biết quý trọng những gì trước mắt, không chỉ những gì trước mắt mà còn những người trước mắt, nếu không khi mất đi có hối cũng muộn rồi.". Một chút lạc đề về phim TVB Mình biết câu này khi xem phim Phong thần bảng của TVB (Đát Kỷ - Trụ Vương). Đây là đoạn sơ lược về câu nói trong phim: Nước mắt của nam nhi chỉ rơi khi họ cảm thấy xứng đáng! Tình mẫu tử là thiêng liêng và vô cùng cao quý. Cho dù con có hư, có ngang bướng cứng đầu ra sao "lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ" nhưng tình máu mủ ruột thịt làm sao mẹ có thể bỏ con được, mẹ vẫn sẽ dõi theo con, đùm bọc và che chở con. "千金难买一回头 - Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu" đến giờ thì con đã hiểu được câu nói ấy mẹ à! Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu có nghĩa là mình không chỉ để ý những gì trước mắt mà còn phải trân trọng những người trư