Chuyển đến nội dung chính

Thiên nhược hữu tình - Nếu trời xanh có tình

Tháng tám, năm Thanh Long nguyên niên đời Ngụy Minh Đế, vua hạ chiếu sai các quan trong cung dùng xe về phía tây, đem tượng tiên nhân cầm mâm vàng hứng sương của Hán Vũ Đế, về đặt trước cung điện, các cung quan làm gãy mâm, khi xe chuẩn bị kéo đi, tượng tiên nhân bỗng nhiên ngậm ngùi nhỏ lệ. Cháu trong hoàng tộc nhà Đường là Lý Trường Cát bèn làm bài thơ về pho tượng tiên nhân bằng đồng rời cung Hán.

Hán Vũ Đế là vị vua hùng tài đại lược, có công trùng hưng Hán thất, đưa Trung Quốc đến buổi hoàng kim. Thuở sinh tiền, do ngạo khí kiêu hùng của bậc đế vương, muốn mình sánh ngang cùng trời đất nên Hán Vũ Đế cho dựng một tượng tiên nhân bằng đồng, hai tay bưng một mâm vàng hứng sương khuya từ mặt trăng rơi xuống để luyện thuốc trường sinh bất lão. Khi Vũ đế qua đời, người ta vẫn hằng đêm nghe tiếng ngựa hý ở nấm mộ của ông ở Mậu Lăng, sáng ra không còn dấu vết. Đến năm Thanh Long thứ nhất (233), Nguỵ Minh Đế Tào Toàn (người kế nghiệp Tào Phi) hạ chiếu cho người kéo tượng đồng về đặt trước cung điện mình. Khi quân kéo tượng đi bỗng nhiên pho tượng ngậm ngùi nhỏ lệ. Lý Hạ cảm thán làm bài này.

Sách Liệu hoa châu nhàn lục 蓼花洲閒錄 chép rằng câu “Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão” trong bài này được coi là thần cú, không ai đối được. Tới đời Tống, Thạch Diên Niên 石延年 (994-1041, tự Mạn Khanh 曼卿) mới đối bằng câu “Nguyệt như vô hận nguyệt thường viên” 月如無恨月常圓 (Trăng nếu không hận thì trăng thường tròn)

 Nguyên văn: Kim đồng tiên nhân từ Hán ca tịnh tự 金銅仙人辭漢歌並序

金銅仙人辭漢歌並序


茂陵劉郎秋風客,
夜聞馬嘶曉無跡。
畫欄桂樹懸秋香,
三十六宮土花碧。
魏官牽車指千里,
東關酸風射眸子。
空將漢月出宮門,
憶君清淚如鉛水。
衰蘭送客咸陽道,
天若有情天亦老。
攜盤獨出月荒涼,
渭城已遠波聲小。

 

Kim đồng tiên nhân từ Hán ca tịnh tự


Mậu Lăng Lưu lang thu phong khách,
Dạ văn mã tê hiểu vô tích.
Hoạ lan quế thụ huyền thu hương,
Tam thập lục cung thổ hoa bích.
Nguỵ quan khiên xa chỉ thiên lý,
Đông quan toan phong tạ mâu tỷ (tử).
Không tương Hán nguyệt xuất cung môn,
Ức quân thanh lệ như duyên thuỷ.
Suy lan tống khách Hàm Dương đạo,
Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão.
Huề bàn độc xuất nguyệt hoang lương,
Vị thành dĩ viễn thanh ba tiểu. 

Dịch nghĩa

Khách trong gió thu là Hán Vũ Đế nơi Mậu Lăng
Đêm đêm nghe tiếng ngựa hí quanh nấm mộ, sáng ra không thấy còn dấu vết nào nữa.
Hương mủa thu còn phảng phất nơi lan can có nhiều hình vẽ và trên cây quế
Ba mươi sáu cung đất đều phủ rêu xanh
Nguỵ quan kéo xe, đưa tay chỉ ngoài ngàn dặm
Nơi cửa Đông, ngọn gió đắng cay ngậm ngùi chia tay cùng ánh mắt
Khi sắp cùng vần trăng cung Hán khi rởi khỏi cửa cung
Tượng đồng nhớ vua, giọt lệ trong nhỏ xuống ướt đền như nước chảy
Trên đường Hàm Dương khóm lan gầy tiễn khách
Nếu trời có tình thì ắt cũng phải già đi (vì thương xót cuộc chia ly)
Tượng đồng ôm mâm vàng đi lẻ loi một mình dưới ánh trăng hoang lương
Vị thành đã xa rồi, tiếng sóng vỗ nghe nhỏ dần

Chú thích

Hán Vũ Đế (chữ Hán: 漢武帝; 31 tháng 7, 156 TCN - 29 tháng 3, 87 TCN), hay được phiên thành Hán Võ Đế, tên thật Lưu Triệt (劉徹), là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.

Ngụy Minh Đế (chữ Hán: 曹魏明帝; 204 - 22 tháng 1, 239), tên thật Tào Duệ (tiếng Trung: 曹叡; bính âm: Cáo Rùi), tự Nguyên Trọng (元仲), là vị Hoàng đế thứ hai của triều Tào Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 226 đến 239, tổng 13 năm. Ngụy Minh Đế có 4 niên hiệu, trong đó có niên hiệu Thanh Long (233 - 236).

Lý Hạ (chữ Hán: 李贺; 790/791 – 816/817) là một nhà thơ sống vào thời Trung Đường. Ông có tên tự là Trường Cát, còn có các biệt hiệu Thi Quỷ và Quỷ Tài. Tên tự của Lý Hạ là Trường Cát, đôi khi ông còn được gọi với cái tên ghép từ họ và tên tự là Lý Trường Cát.Người đời cũng mệnh danh ông là Quỷ Tài (鬼才), với lối làm thơ đối lập[g] với Thiên Tài (天才) Lý Bạch và Nhân Tài (人才) Bạch Cư Dị. Biệt hiệu này do học giả thời nhà Tống Tiền Dị (錢易) đặt cho Lý Hạ trong tác phẩm Nam bộ tân thư (南部新書).Vị thi sĩ cũng được mệnh danh là "Thi Quỷ" (詩鬼), trong khi Lý Bạch được gọi là "Thi Tiên" (詩仙) còn Đỗ Phủ là "Thi Thánh" (詩聖).

Thạch Diên Niên 石延年 (994-1041) tự Man Khanh 曼卿, người Tống Thành (nay là Thương Châu, Hà Nam) đời Bắc Tống. Ông là người có khí tiết, tính tình thoải mái, mấy lần thi tiến sĩ không đậu

Nhận xét

  1. Haizzz, gõ 1 cái còm, đăng rồi mất tiêu.

    Chị nghĩ có gì đó sai sai ở câu này Nguyệt như vô hận nguyệt thường viên” 月如無恨月常圓 (Trăng nếu không có tình người thì chắc hẳn lúc nào cũng luôn sáng). Nếu dịch sát nghĩa thì là Trăng (nếu như) không (bị) ghét, (thì) trăng luôn tròn. "Vô hận" dịch là "không có tình người", e là hơi trái nghĩa

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Hi chị.
      Em thấy blogger là nền tảng miễn phí tốt (wordpress thì bị tính dung lượng) mà giờ ít người xài, nên Google cũng bỏ mặc
      Để em sửa lại câu đó: Trăng không hận trăng thường khi tròn mãi: thị nghe có vẻ hợp lý hơn.

      Xóa
    2. Nói về Blogger, chị cũng đồng ý với em. Nhưng Google quá ôm đồm nhiều thứ, nhào vô dịch vụ "mạng xã hội" (blogspot, google+) sau đó bỏ xó (blogspot) / bỏ xóa (google +). Blogger không nhiều người biết và chơi (nếu so với FB) nên nó đìu hiu. Có nhiều bạn bloggers trong liên kết của chị đã thôi không còn viết, và đã thôi không còn chơi blog. Có lẽ, 1 phần blogger vắng vẻ, 1 phần ít tương tác quá, nên người viết đâm chán, vì không ai bình luận hay qua lại nói chuyện, người chơi blogger cứ như 1 đứa tự kỷ tự nói chuyện với mình. FB sống lâu là nhờ sự tương tác, nhộn nhịp

      Xóa

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi

Hán Việt:  Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi (情人眼里出西施 - cing4 jan4 ngaan5 leoi5 ceot1 sai1 si1) Dịch nghĩa : trong mắt kẻ si tình, người tình luôn đẹp nhất. Chú thích: Tây Thi (chữ Hán: 西施 - sai1 si1 ), còn gọi là Tây Tử (西子), là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là Trầm ngư (沉魚).  

Nhất ngôn cửu đỉnh, tứ mã nan truy

Trên Yahoo hỏi đáp có câu trả lời hay quá, đăng lên cho mọi người tham khảo: Quân tử là từ dùng để chỉ những người biết cách xử thế, có học vấn trong xã hội phong kiến. Khái niệm này do Khổng Tử đưa ra để dạy con người biết cử xử, ăn ở, đối đãi giữa người với người, người với xã hội, người với thiên nhiên. Ví dụ như "Tam cương ngũ thường", "Tam cương" tức là 3 mối ràng buộc về mặt quan hệ trong xã hội gồm "Quân - Sư - Phụ" tức là "Vua - Thày dạy - Cha". Tam cương dạy người ta trên kính dưới nhường, là 3 loại người mà người quân tử phải thờ phụng, trung hiếu. Còn "Ngũ thường" tức là Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín. Người quân tử phải biết yêu thương đồng loại (Nhân), phải có phép tắc tôn ti (Lễ), phải có tình nghĩa, phải có trí tuệ (tức là còn phải biết đi học và xử lý tình huống) và cuối cùng là phải biết giữ lời hứa (Tín). Xét về nghĩa đen thì còn có thể hiểu "Quân tử" là con vua, hoặc cũng có thể hiểu là Người (

Thiên kim nan mãi bất hồi đầu

Phiên âm: 千金难买一回头 Dịch nghĩa:  Ngàn vàng không mua được một lần quay đầu sám hối. Lời bình: "có nghĩa là thời khắc qua rồi không lấy lại được,do đó nên biết quý trọng những gì trước mắt, không chỉ những gì trước mắt mà còn những người trước mắt, nếu không khi mất đi có hối cũng muộn rồi.". Một chút lạc đề về phim TVB Mình biết câu này khi xem phim Phong thần bảng của TVB (Đát Kỷ - Trụ Vương). Đây là đoạn sơ lược về câu nói trong phim: Nước mắt của nam nhi chỉ rơi khi họ cảm thấy xứng đáng! Tình mẫu tử là thiêng liêng và vô cùng cao quý. Cho dù con có hư, có ngang bướng cứng đầu ra sao "lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ" nhưng tình máu mủ ruột thịt làm sao mẹ có thể bỏ con được, mẹ vẫn sẽ dõi theo con, đùm bọc và che chở con. "千金难买一回头 - Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu" đến giờ thì con đã hiểu được câu nói ấy mẹ à! Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu có nghĩa là mình không chỉ để ý những gì trước mắt mà còn phải trân trọng những người trư