Ngày bé:
Albert sinh năm 1879 tại Ulm, nước Đức, và ông chậm nói đến mức cha mẹ tưởng ông bị thiểu năng thể nhẹ.
Dù gia đình là người Do Thái nhưng thời tiểu học ông theo học ở trường dòng và chẳng giỏi giang gì. Các giáo viên nhận xét ông “chẳng giống ai” vì ông hỏi quá nhiều, phát biểu thì chậm chạp, thêm tật bẽn lẽn nên ngay cả bạn học cùng lứa cũng nghĩ ông là đứa “chậm tiêu.”
Vị hiệu trưởng còn nói với gia đình ông rằng mai này cậu bé học ngành nào cũng không quan trọng, bởi cậu sẽ chẳng làm nên trò trống gì.
Lúc nào ông cũng bẽn lẽn và mơ mộng, bạn bè thì chẳng chơi được với ai, thế nên ông cứ lủi thủi một mình hoặc ngồi nghe mẹ chơi đàn dương cầm hàng giờ đồng hồ.
Trong khi bạn cùng trường đùa nghịch trong sân thì ông đứng riêng một góc, chìm trong suy nghĩ và mơ mộng. Đối vối ông, niềm vui là sáng tác ra những bài hát ngắn trên đàn dương cầm, rồi ngân nga trong miệng những khi không có chiếc đàn bên cạnh.
Nhiều giáo viên thời tiểu học cho rằng ông bị “đần.” Chính tả là môn không nuốt nổi đối với ông, và bởi ông không thích học thuộc lòng nên ông học hành chểnh mảng, điểm số thì thấp lè tè.
12 tuổi, ông bắt đầu mê mẩn môn đại số, môn học về sau thay đổi toàn bộ cuộc đời ông bởi nó cho ông thấy người ta có thể làm được gì chỉ bằng “những luồng suy nghĩ”.
Và rồi ông tìm đọc thật nhiều sách, tự học toán vi phân và tích phân. Nhưng ông vẫn không thích đến trường. 15 tuổi, ông bị trường cấp ba buộc thôi học vì kết quả học hành không tiến triển của ông là “tấm gương xấu” cho các học sinh khác.
Sau khi rời khỏi trường, ông cùng gia đình chuyển đến Ý và bỏ quốc tịch Đức. Ông không có quốc tịch cho đến khi chính thức trở thành công dân Thụy Sĩ vào năm 1901.
Ông trượt trong lần thi đầu tiên vào Viện Khoa học Công nghệ Liên bang Thụy sĩ tại thành phố Zurich. Kết quả bài thi toán và vật lý của ông rất tốt, nhưng lại làm quá tệ ở môn sinh học, hóa học và tiếng Pháp.
Khi được Viện Khoa học Công nghệ Liên bang Thụy sĩ nhận vào, kết quả học tập của ông cũng chẳng khá khẩm gì hơn bởi ông dành phần lớn thời gian và sức lực vào học những gì mình thích, chứ không theo giáo trình do viện đặt ra. Ông không quan tâm đến phương pháp học tập kiểu đó, và ông rất ghét phải thường xuyên đến lớp rồi làm bài kiểm tra.
Chính phong thái học hành kiểu này đã khiến ông không có được việc làm sau khi tốt nghiệp. Ông là sinh viên duy nhất tốt nghiệp mà không được viện mời làm trợ giảng.
Khi trưởng thành:
Sau khi tốt nghiệp vào năm 1900, ông tìm việc rất khó khăn, nên tạm thời ông đi dạy. Đến năm 1902, ông được Cục Sở hữu Trí tuệ Thụy Sĩ nhận vào làm. Với công việc này, ông có thời gian nghiên cứu vật lý và toán cao cấp.
Năm 1905, ông đặt nền móng đầu tiên cho thời đại nguyên tử khi đưa ra phương trình: E = mc2 (năng lượng = khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng), vốn có thể xem là công thức nổi tiếng nhất trong ngành khoa học.
Thuyết tương đối của ông được các khoa học gia xem là một trong những thành tựu khoa học vĩ đại nhất nhân loại. Ông là người đầu tiên công bố mối tương quan giữa vật chất và năng lượng, vốn có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác.
Ông trở nên nổi tiếng toàn cầu sau khi phát minh ra thuyết tương đối hẹp vào năm 1905 và thuyết tương đối rộng vào năm 1916. Cả hai thuyết này đã trở thành nền tảng cho ngành năng lượng hạt nhân.
Ông được trao giải Noel vì Hòa Bình trong ngành vật lý vào năm 1921, đồng thời đạt Huy chương Vàng do Hội Thiên văn học Hoàng Gia trao tặng. Năm công trình nghiên cứu được ông chính thức công bố đã thay đổi quan niệm của con người về vũ trụ mãi mãi.
Vốn là người Do Thái nên ông lên tiếng phản đối tội ác mà Đức Quốc Xã trút lên dân tộc lưu vong của ông, vậy nên Đế quốc thứ ba này chẳng ưa gì ông. Sau khi Đảng Phát xít lên nắm quyền tại Đức vào năm 1932 và ông bị tịch thu toàn bộ tài sản, ông không bao giờ quay lại Đức nữa.
Viện Nghiên cứu Cao cấp thuộc Đại học Princeton mời ông về giảng dạy, tại đây ông đã thử hợp nhất các định luật vật lý. Đến năm 1940, ông trở thành công dân Mỹ trong khi vẫn giữ quốc tịch Thụy Sĩ trước đây của mình.
Công trình nghiên cứu của ông gián tiếp dẫn đến phát minh bom nguyên tử, điều này khiến ông buồn vô hạn vì ông không nghĩ đứa con tinh thần của mình lại phục vụ cho mục đích hủy diệt.
Ông dành những năm tháng cuối đời cho công cuộc kêu gọi kiểm soát vũ khí hạt nhân và sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình. Đến năm 1945, ông được bổ nhiệm làm chủ tịch Cơ quan Phản ứng nhanh ngành Khoa học Nguyên tử nhằm thúc đẩy hòa bình thế giới.
Năm 1952, đất nước Israel non trẻ ngỏ lời mời ông vào vị trí tổng thống nhưng, dù cảm thấy rất vinh dự, ông đã từ chối.
Một tuần trước khi qua đời, ông ký tên vào bức chúc thư gửi đến triết gia vĩ đại Bertrand Russell, với nội dung là ông đồng ý để vị này sử dụng tên tuổi ông trong bản tuyên ngôn kêu gọi tất cả quốc gia trên thế giới từ bỏ vũ khí hạt nhân. Hành động cuối cùng này thuận theo triết lý sống cả đời của ông: mãi mãi tranh đấu vì hòa bình thế giới.
Ông là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại, sánh ngang với Galileo và Isaac Newton trong vai trò là người cách mạng hóa khái niệm về không gian, thời gian, vật chất, năng lượng và ánh sáng, đồng thời dẫn dắt nhân loại vào cuộc hành trình tìm hiểu vũ trụ đầy mới mẻ.
Ông là công dân ưu tú được cả thế giới công nhận và là một trong những nhân vật đi vào lịch sử loài người của thế kỷ 20.
“Điều khó hiểu nhất về thế giới này là mọi thứ đều có thể hiểu được.”
__Albert Einstein (1879 - 1955)
*** Trích sách "Dám Mơ Ước Để Trưởng Thành"
Albert sinh năm 1879 tại Ulm, nước Đức, và ông chậm nói đến mức cha mẹ tưởng ông bị thiểu năng thể nhẹ.
Dù gia đình là người Do Thái nhưng thời tiểu học ông theo học ở trường dòng và chẳng giỏi giang gì. Các giáo viên nhận xét ông “chẳng giống ai” vì ông hỏi quá nhiều, phát biểu thì chậm chạp, thêm tật bẽn lẽn nên ngay cả bạn học cùng lứa cũng nghĩ ông là đứa “chậm tiêu.”
Vị hiệu trưởng còn nói với gia đình ông rằng mai này cậu bé học ngành nào cũng không quan trọng, bởi cậu sẽ chẳng làm nên trò trống gì.
Lúc nào ông cũng bẽn lẽn và mơ mộng, bạn bè thì chẳng chơi được với ai, thế nên ông cứ lủi thủi một mình hoặc ngồi nghe mẹ chơi đàn dương cầm hàng giờ đồng hồ.
Trong khi bạn cùng trường đùa nghịch trong sân thì ông đứng riêng một góc, chìm trong suy nghĩ và mơ mộng. Đối vối ông, niềm vui là sáng tác ra những bài hát ngắn trên đàn dương cầm, rồi ngân nga trong miệng những khi không có chiếc đàn bên cạnh.
Nhiều giáo viên thời tiểu học cho rằng ông bị “đần.” Chính tả là môn không nuốt nổi đối với ông, và bởi ông không thích học thuộc lòng nên ông học hành chểnh mảng, điểm số thì thấp lè tè.
12 tuổi, ông bắt đầu mê mẩn môn đại số, môn học về sau thay đổi toàn bộ cuộc đời ông bởi nó cho ông thấy người ta có thể làm được gì chỉ bằng “những luồng suy nghĩ”.
Và rồi ông tìm đọc thật nhiều sách, tự học toán vi phân và tích phân. Nhưng ông vẫn không thích đến trường. 15 tuổi, ông bị trường cấp ba buộc thôi học vì kết quả học hành không tiến triển của ông là “tấm gương xấu” cho các học sinh khác.
Sau khi rời khỏi trường, ông cùng gia đình chuyển đến Ý và bỏ quốc tịch Đức. Ông không có quốc tịch cho đến khi chính thức trở thành công dân Thụy Sĩ vào năm 1901.
Ông trượt trong lần thi đầu tiên vào Viện Khoa học Công nghệ Liên bang Thụy sĩ tại thành phố Zurich. Kết quả bài thi toán và vật lý của ông rất tốt, nhưng lại làm quá tệ ở môn sinh học, hóa học và tiếng Pháp.
Khi được Viện Khoa học Công nghệ Liên bang Thụy sĩ nhận vào, kết quả học tập của ông cũng chẳng khá khẩm gì hơn bởi ông dành phần lớn thời gian và sức lực vào học những gì mình thích, chứ không theo giáo trình do viện đặt ra. Ông không quan tâm đến phương pháp học tập kiểu đó, và ông rất ghét phải thường xuyên đến lớp rồi làm bài kiểm tra.
Chính phong thái học hành kiểu này đã khiến ông không có được việc làm sau khi tốt nghiệp. Ông là sinh viên duy nhất tốt nghiệp mà không được viện mời làm trợ giảng.
Khi trưởng thành:
Sau khi tốt nghiệp vào năm 1900, ông tìm việc rất khó khăn, nên tạm thời ông đi dạy. Đến năm 1902, ông được Cục Sở hữu Trí tuệ Thụy Sĩ nhận vào làm. Với công việc này, ông có thời gian nghiên cứu vật lý và toán cao cấp.
Năm 1905, ông đặt nền móng đầu tiên cho thời đại nguyên tử khi đưa ra phương trình: E = mc2 (năng lượng = khối lượng nhân với bình phương tốc độ ánh sáng), vốn có thể xem là công thức nổi tiếng nhất trong ngành khoa học.
Thuyết tương đối của ông được các khoa học gia xem là một trong những thành tựu khoa học vĩ đại nhất nhân loại. Ông là người đầu tiên công bố mối tương quan giữa vật chất và năng lượng, vốn có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác.
Ông trở nên nổi tiếng toàn cầu sau khi phát minh ra thuyết tương đối hẹp vào năm 1905 và thuyết tương đối rộng vào năm 1916. Cả hai thuyết này đã trở thành nền tảng cho ngành năng lượng hạt nhân.
Ông được trao giải Noel vì Hòa Bình trong ngành vật lý vào năm 1921, đồng thời đạt Huy chương Vàng do Hội Thiên văn học Hoàng Gia trao tặng. Năm công trình nghiên cứu được ông chính thức công bố đã thay đổi quan niệm của con người về vũ trụ mãi mãi.
Vốn là người Do Thái nên ông lên tiếng phản đối tội ác mà Đức Quốc Xã trút lên dân tộc lưu vong của ông, vậy nên Đế quốc thứ ba này chẳng ưa gì ông. Sau khi Đảng Phát xít lên nắm quyền tại Đức vào năm 1932 và ông bị tịch thu toàn bộ tài sản, ông không bao giờ quay lại Đức nữa.
Viện Nghiên cứu Cao cấp thuộc Đại học Princeton mời ông về giảng dạy, tại đây ông đã thử hợp nhất các định luật vật lý. Đến năm 1940, ông trở thành công dân Mỹ trong khi vẫn giữ quốc tịch Thụy Sĩ trước đây của mình.
Công trình nghiên cứu của ông gián tiếp dẫn đến phát minh bom nguyên tử, điều này khiến ông buồn vô hạn vì ông không nghĩ đứa con tinh thần của mình lại phục vụ cho mục đích hủy diệt.
Ông dành những năm tháng cuối đời cho công cuộc kêu gọi kiểm soát vũ khí hạt nhân và sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình. Đến năm 1945, ông được bổ nhiệm làm chủ tịch Cơ quan Phản ứng nhanh ngành Khoa học Nguyên tử nhằm thúc đẩy hòa bình thế giới.
Năm 1952, đất nước Israel non trẻ ngỏ lời mời ông vào vị trí tổng thống nhưng, dù cảm thấy rất vinh dự, ông đã từ chối.
Một tuần trước khi qua đời, ông ký tên vào bức chúc thư gửi đến triết gia vĩ đại Bertrand Russell, với nội dung là ông đồng ý để vị này sử dụng tên tuổi ông trong bản tuyên ngôn kêu gọi tất cả quốc gia trên thế giới từ bỏ vũ khí hạt nhân. Hành động cuối cùng này thuận theo triết lý sống cả đời của ông: mãi mãi tranh đấu vì hòa bình thế giới.
Ông là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại, sánh ngang với Galileo và Isaac Newton trong vai trò là người cách mạng hóa khái niệm về không gian, thời gian, vật chất, năng lượng và ánh sáng, đồng thời dẫn dắt nhân loại vào cuộc hành trình tìm hiểu vũ trụ đầy mới mẻ.
Ông là công dân ưu tú được cả thế giới công nhận và là một trong những nhân vật đi vào lịch sử loài người của thế kỷ 20.
“Điều khó hiểu nhất về thế giới này là mọi thứ đều có thể hiểu được.”
__Albert Einstein (1879 - 1955)
*** Trích sách "Dám Mơ Ước Để Trưởng Thành"
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhãn
Góc nhìn khác
Nhãn:
Góc nhìn khác
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét