Chuyển đến nội dung chính

Loan phụng hòa minh

Tổng hợp 1 số thông tin giảng giải về chữ Loan phượng

鸞鳳和鳴 Loan phượng hoà minh (Loan phượng hoà tiếng)
Loan phụng (phượng) thể hiện rõ nhất cho sự gắn bó, hài duyên đôi lứa. Loan là con chim phượng mái, thuộc âm nên chỉ chung cho con gái; phụng là con chim phượng trống, thuộc dương nên đại diện cho con trai. Loan phượng là hình ảnh biểu trưng cho sự hài hoà, cân xứng và đẹp đôi của trai và gái. Vì thế nên người  ta mới dùng hình ảnh chim loan, chim phượng cùng hót (Loan phượng hoà minh) để chỉ cảnh xum vầy, hoà thuận và hạnh phúc của vợ chồng. Gần nghĩa với từ loan phượng ta thấy từ phượng hoàng cũng có nghĩa nội tại tương tự. Phượng là con chim phượng trống, hoàng là con chim phượng mái, có trống có mái là có cảnh ấm êm chồng vợ. Nhưng từ phượng hoàng chỉ dùng để nói về loài chim phượng nói chung, ít thấy đề cập đến hàm nghĩa chỉ đôi lứa. Uyên ương cũng là một từ hay dùng để chỉ sự vầy duyên trai gái. Nếu như loan phượng gặp nhiều trong thành ngữ và dân gian như Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan (Ca dao) thì uyên ương lại xuất hiện phổ biến trong văn chương.

Câu chuyện xưa

Phụng Hoàng, Phượng Hoàng là một trong tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng. Khi gọi “Long Phụng...”, long tượng trưng cho nam giới, hùng mạnh, cứng cỏi; phụng tượng trưng cho nữ giới, thướt tha, uyển chuyển. Bên cạnh chữ “Song Hỷ”, hình ảnh phượng xòe, rồng uốn khúc, cuộn mây được gọi “Long Vân Tế Hội”. Trên mũ, áo hoàng đế trang trí hình rồng; trên mũ, áo hoàng hậu trang trí hình phụng hoàng. Trên cung điện và ở trong nhiều công trình kiến trúc thơi xưa đều được chạm trổ, vẽ hình ảnh long, phụng như biểu tượng cao quý, uy quyền, mỹ thuật, thanh tao.

Khi chữ viết bay bướm, linh động, có thần, đẹp tuyệt vời - điển hình như chữ Hán - dùng thành ngữ "Phụng bay rồng múa" để diễn tả nét bút độc đáo của nó.

Trong tứ linh đó, phượng còn đi với lân, đi vào văn học để biểu lộ sự tương hợp, cùng dong dõi quyền quý với nhau:

"Đồng hàng lông phượng gót lân

Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng"

(Nhị Độ Mai)

Vào triều Nguyễn, hình ảnh rồng danh cho nhà vua; hoàng thái hậu, hoàng hậu, công chúa với hình chim phụng hoàng trên áo mũ màu vàng, màu đỏ và cung tần được chia ra làm 3 loại theo thứ bậc cao thấp, thêu 5, 3 và 1 con phượng trên mũ. Áo sa sợi tơ màu đỏ, màu tía và màu trắng cũng tùy theo thứ basc cao thấp dệt hình con loan.

Phượng hoàng là linh vật, phượng là chim trống, hoàng là chim mái, còn gọi là loan.

Vào thời Hán Vũ Đế, máu Chim Loan được dùng làm keo nối dây cung, dây đàn, rất chắc, bền. Giao là keo, vì vậy có câu "An đắc giao loan tục đoạn huyền" (Ước gì có keo loan để nối giây đàn đứt). Thi hào Nguyễn Du đề cập qua dòng thơ:

"Giữa đường đứt gánh tương tư,

Giao loan chắp nối, tơ thừa mặc em"

(Kiều)

Hình ảnh phụng loan tượng trưng cho điều lành, tốt đẹp, bền vững bên nhau, vì vậy, khi chúc mừng cho đôi uyên ương được nên duyên tốt đẹp, dùng “Loan Phụng Hòa Minh” để bầy tỏ duyên tơ thắm thiết vợ chồng.

Trong thi ca Việt Nam đã đề cập đến hình ảnh giữa phụng và loan:

“Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,

Hoa quan giấp giới, hà y rỡ ràng”

(Kiều)

“Nào người phượng chạ loan chung,

Nào người tiếc lục tham hồng là ai”

(Kiều)

Ca dao Việt Nam có câu:

"Phụng với loan hai đàng phân rẽ

Qua với nàng chẳng lẽ phân nhau".

“Loan ôm lấy phụng, phụng bồng lấy loan”

Mối tình đầy lãng mạn, thơ mộng của Phan Tất Chánh & Trần Kiều Liên từ thời Tống Tĩnh Khang ở Trung Hoa thời xa xưa được viết qua truyện thơ nôm “Phan Trần” đi vào văn học Việt Nam, ghi lại hình ảnh đôi kẻ tình si lúc hội ngộ:

"Vũ môn mừng đã đến tuần

Phượng loan rày gặp, phong vân phải tìm”.

(Phan Trần)

Vào tiền bán thế kỷ XX, nhà thơ Tản Đà có bài thơ chúc mừng tân hôn:

"Mừng ai gối phượng, chân loan

Khuyên ai gánh lấy giang san nhà chồng

Chúc ai tay bế tay bồng

Con tiên rồi lại cháu Rồng về sau"

Khi mối tình gãy đỗ, nhẹ nhàng mượn hình bóng “phụng loan chếch cánh” cho có vẽ nhẹ nhàng, văn chương. Khi trai và gái chưa thành hôn mà sống chung chạ với nhau, người xưa đã gọi "phượng chạ loan chung". Và, bày tỏ tình cảnh vợ chồng ngăn cách, vợ một nơi, chồng một ngã: "loan phiêu phụng bạc"

Loan giá: xe của vua đi. Loan dư: kiệu của vua đi. Loan tường phụng chủ: chữ viết sinh động như loan liệng phụng bay. Phượng cái: lọng của vua có thêu hình chim phượng. Phượng chiếu: tờ chiếu của vua có vẽ hình chim phượng. Phượng kỳ: nghi trượng của vua. . .

Theo GS Thái Văn Kiểm, nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka quả quyết chim trĩ cũng giống như chim phụng hoàng. Phụng hoàng co đuôi dài chấm nhãn khá nhiều, vừa giống chim trĩ, vừa giống chim công, Tay gọi là Faisan ocelle', Faisan argus; tên La tinh là Argusianus Argus…... Chim loan (chim mái) có lông ngũ sắc nhưng sắc xanh óng ánh nhiều hơn, còn chim phụng cũng lông ngũ sắc nhưng màu đỏ tía nhiều hơn.

Phượng hoàng luôn luôn sát cánh bên nhau vượt đại dương, núi rừng, thảo nguyên bát ngát, bay tận trời xanh, cỡi mây, lướt gió.

Trong khoảng bốn trăm loài chim, phụng hoàng được xem như chúa tể. Ăn quả trúc, uống nước suối trong. Vào thời xa xưa, phụng hoàng vượt núi rừng, biển cả về núi Côn Luân, uống nước suối Để Trụ, tắm nước Nhược Thủy, phơi nắng trên đỉnh Đơn Tuyệt. Khi bay có nhiều giống chim khác bay theo tháp tùng. Khi hót, hàng trăm loài chim cùng cất theo, hòa thành bản đại hợp tấu với muôn nghìn âm điệu. Phụng hoàng thân cao, dáng vẻ thanh nhã, màu sắc lộng lẫy. Mỏ như mỏ gà trống, trên mỏ có mồng, cổ như cổ rắn, lưng tựa rùa, lông mầu ngũ sắc, đuôi sặc sở như đuôi công, xếp lại như đuôi cá.

Ngày xưa, vua Phục Hy đời thượng cổ, thấy chim Phụng Hoàng đậu trên cây ngô đồng, nhà vua cho hạ cây ngô đồng, cưa làm 3 khúc. Nhà vua cho người thử, khúc ngọn phát ra tiếng trong, khúc gốc tiếng đục, khúc giữa phát ra chuổi âm điệu từ trong đến đục. Nhà vua cho ngâm khúc giữa vào dòng nước chảy 72 ngày rồi giao cho Lưu Tử Kỳ đẽo thành cây đàn, gồm 13 phím, 5 giây (Cung, Thương, Giốc, Chủy Vũ), đặt tên là Diêu Cầm. Đời Văn Vương, Võ Vương thêm hai giây (Văn, Võ). Một loại cây thông thường được Phụng Hoàng đậu đã trở thành danh mộc, khai sinh ra loại đàn. Trong thơ cổ có câu: “Phục Hy chế tác lễ nghi”, cây Diêu Cầm là hình ảnh đầu tiên cho lễ nhạc.

Vào thời Xuân Thu, Kính Trọng công thành danh toại nhưng quá thận trọng về đường tình duyên và khi bói được quẻ "Phụng Hoàng" mới chọn người phối ngẫu.

Hình ảnh phượng hoàng trở thành điển tích ,như huyền thoại và được dè cập trong văn học cho lương duyên cuộc tình:

"Phượng bay bốn bể cầu hoàng

Giai nhân chẳng ở đông sàng thì đâu"

(Tây Sương Ký)

"Nước trong xanh lơ lửng con cá vàng

Cây ngô cành bích con chim phượng hoàng nó đậu cao.

Anh tiếc cho em phận gái má đào

Tham đồng bạc trắng mới gán mình vào lấy chú Tây đen"

(Tản Đà)

“Thơ mừng kính có lời trân trọng,

Gia thất hòa vui tiếng phượng hoàng”

(Đông Hồ)

“Phượng cầu dù lựa nên cung

Ngọn cầm biết gẩy được lòng hay chăng”

(Nguyễn Thiện - danh sĩ đời Lê - cháu Nguyễn Du)

“Phượng bay bốn bể cầu hoàng

Giai nhân chẳng ở đông trường thì đâu”

(Tây Sương)

"Công danh chờ thử xuân sang

Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau"

(Phan Trần)

Ca dao Việt Nam đã đề cập đến duyên nợ trời cho:

“Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng

Khác gì như thể phượng, hoàng gặp nhau”.

Tuy phượng hoàng là hình tượng rất phổ biến từ chốn cung đình đến sinh hoạt văn hóa nhưng hình ảnh đó được phát họa trong óc tưởng tượng về linh vật từ ngàn xưa cho tới nay với bao truyền thuyết.

Đời nhà Đường, Võ Tắc Thiên phát họa lại đồ án từ thời Thái Tông và Cao Tổ xây cất điện Minh Đường. Võ Tắc Thiên giao phó cho tình lang Tiết Hoài Nghĩa sai nho sĩ phái Bắc Môn vẽ kiểu, dùng địa điểm bên trong Nam Môn của hoàng cung ở Lạc Dương. Điện Minh Đường hoàn thành năm 688, cao 100 mét, gồm 3 tầng, rộng 100 mét vuông. Trên nóc điện với hình ảnh con phượng hoàng làm bằng sắt mạ vàng, cao 3 mét, biểu tượng của Võ hậu. Không đứng vững được bao lâu vì bị điện Minh Đường bị đốt cháy, không còn di tích bóng phượng hoàng.

Vào thời Tây Sơn (1788-1802) tháng 10 năm 1788 Nguyễn Huệ ban chiếu chọn Vinh xây dựng kinh đô. Phụng Hoàng Trung Đô, giữa nứi Dũng Quyết và núi Kỳ Lân, dưới sự chỉ huy của La Sơn Phu Tử và Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Thận, đó là kinh đô thứ năm sau kinh đô Văn Lang ở Việt Trì, kinh đô Cổ Loa (Hà Nội), kinh đô Hoa Lư ở Ninh Bình, kinh đô Thăng Long.

Thi hào Nguyễn Du, trên đường lai kinh vào năm 1804, sáng tác bài thơ "Phượng Hoàng Thượng Lộ Tảo Hành" mô tả cảnh tượng xa xăm, đêm xuống sắc trời mờ mờ, nghe tiếng vượn hú, thấy dâu chân cọp, ngủ đưởng gặp tiều phu, thương nhau tuy không cùng cảnh ngộ: "Chinh phu hoài vãng lộ, Dạ sắc thượng mông mông, Nguyệt lạc viên thanh ngoại, Nhân hành hổ tích trung..."

Có vài địa danh mang tên phụng hoàng như đảo Phụng Hoàng dùng làm nơi phát tuyến đài Tự Do thời Việt Nam Cộng Hòa, núi Phượng Hoàng ở Pleiku nhưng nơi nầy không có bóng dáng loài chim trĩ, phượng hoàng.

Trong tem thơ Việt Nam Cộng Hòa có tem thư với đề tài "Chim Phượng Hoàng Đang Bay" do họa sĩ Nguyễn Thanh Thu vẽ, ngày phát hành 7 tháng 9 năm 1955, màu tím, đỏ giá 4$00.

Âm nhạc Trung Hoa hình thành từ Linh Luân, Hậu Quỳ; đời Ngũ Đế, Tam Vương, âm nhạc trở thành lễ nghi trong cung đình; đời Xuân Thu nổi danh với Sư Khoáng tinh thông âm pháp đưa âm nhạc đến mức vi diệu, cao siêu. Và, Tư Mã Tương Như đời Hán với khúc “Phượng Cầu Hoàng” trở thành bất tử, lưu truyền hậu thế.

Tố Như tiên sinh trong thi phẩm “Kiều” đã đề cập về âm nhạc Trung Hoa cũng như Đông phương:

“Cung thương lầu bậc ngũ âm... Lọt tai nghe suốt năm cung”.

Ngôn ngữ, âm giai của âm nhạc Đông phương chỉ có ngũ âm - năm bậc, năm cung: Cung, Thương, Dốc, Thủy, Vũ (Cống, Xừ, Xang, Xế, Líu) nhưng cũng được biến hóa muôn sắc, muôn âm, rất phong phú và huyền diệu. Theo Lê Qúy Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ : "Lấy hoàng chung làm cung, lấy lâm chung làm chủy, lấy thái tấu làm thương, nam lã làm vũ, cô tiến làm giốc, ứng chung làm biến cung, sanh tan làm biến chủy. Đấy là thất luật để làm đờn cho thanh âm điều hòa . . . ".

Nhạc khí Đông phương gồm đàn, sáo, nhị... Riêng sáo, có đến 6 loại, tên gọi khác nhau tùy theo thổi ngang, thổi dọc, không và có lưỡi gà, 2 ỗ, 6 lỗ, 7 lỗ, chín lỗ...: Tiêu, Địch, Hoàng, Quản, Trì, Huân.

Năm 1964, khúc “Phượng Vũ” với nghệ thuật sáng tác của Nguyễn Đình Nghĩa dựa vào giàn nhạc Bát Aâm ở cung đình Huế qua tiếng sáo điêu luyện được trình diễn ở trong nước và hải ngoại đã làm vang bóng, giới thưởng thức say mê, ái mộ. Nghe “Phượng Vũ”, hình dung được hình ảnh phượng hoàng đập cánh, xòe cánh...lúc rỉa đuôi, giủ đuôi, cụp, xòe, quay, múa... nhặt, khoan theo từng vũ điệu.

Qua năm tháng, qua bao biến thiên, vật đổi sao dời, khúc “Phượng Cầu Hoàng” dù đã thất truyền nhưng tình sử... vẫn vượt thời gian.


 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi

Hán Việt:  Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi (情人眼里出西施 - cing4 jan4 ngaan5 leoi5 ceot1 sai1 si1) Dịch nghĩa : trong mắt kẻ si tình, người tình luôn đẹp nhất. Chú thích: Tây Thi (chữ Hán: 西施 - sai1 si1 ), còn gọi là Tây Tử (西子), là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là Trầm ngư (沉魚).  

Nhất ngôn cửu đỉnh, tứ mã nan truy

Trên Yahoo hỏi đáp có câu trả lời hay quá, đăng lên cho mọi người tham khảo: Quân tử là từ dùng để chỉ những người biết cách xử thế, có học vấn trong xã hội phong kiến. Khái niệm này do Khổng Tử đưa ra để dạy con người biết cử xử, ăn ở, đối đãi giữa người với người, người với xã hội, người với thiên nhiên. Ví dụ như "Tam cương ngũ thường", "Tam cương" tức là 3 mối ràng buộc về mặt quan hệ trong xã hội gồm "Quân - Sư - Phụ" tức là "Vua - Thày dạy - Cha". Tam cương dạy người ta trên kính dưới nhường, là 3 loại người mà người quân tử phải thờ phụng, trung hiếu. Còn "Ngũ thường" tức là Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín. Người quân tử phải biết yêu thương đồng loại (Nhân), phải có phép tắc tôn ti (Lễ), phải có tình nghĩa, phải có trí tuệ (tức là còn phải biết đi học và xử lý tình huống) và cuối cùng là phải biết giữ lời hứa (Tín). Xét về nghĩa đen thì còn có thể hiểu "Quân tử" là con vua, hoặc cũng có thể hiểu là Người (

Thiên kim nan mãi bất hồi đầu

Phiên âm: 千金难买一回头 Dịch nghĩa:  Ngàn vàng không mua được một lần quay đầu sám hối. Lời bình: "có nghĩa là thời khắc qua rồi không lấy lại được,do đó nên biết quý trọng những gì trước mắt, không chỉ những gì trước mắt mà còn những người trước mắt, nếu không khi mất đi có hối cũng muộn rồi.". Một chút lạc đề về phim TVB Mình biết câu này khi xem phim Phong thần bảng của TVB (Đát Kỷ - Trụ Vương). Đây là đoạn sơ lược về câu nói trong phim: Nước mắt của nam nhi chỉ rơi khi họ cảm thấy xứng đáng! Tình mẫu tử là thiêng liêng và vô cùng cao quý. Cho dù con có hư, có ngang bướng cứng đầu ra sao "lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ" nhưng tình máu mủ ruột thịt làm sao mẹ có thể bỏ con được, mẹ vẫn sẽ dõi theo con, đùm bọc và che chở con. "千金难买一回头 - Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu" đến giờ thì con đã hiểu được câu nói ấy mẹ à! Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu có nghĩa là mình không chỉ để ý những gì trước mắt mà còn phải trân trọng những người trư