Tôi phải đọc đi đọc lại mãi mới phân biệt được tên húy, miếu hiệu, thụy hiệu, niên hiệu của các đời vua Việt.
Trước đây vì thắc mắc nên tôi phải đọc đi đọc lại mãi mới phân biệt được
tên húy, miếu hiệu, thụy hiệu, niên hiệu, nên nói gì chuyện trẻ con
nhầm lẫn.
Lấy ví dụ vua Ung Chính của nhà Thanh (bên Trung Hoa):
- Tên húy: (Ái Tân Giác La) Dận Chân - Niên hiệu: Ung Chính - Miếu hiệu:
(Thanh) Thế Tông - Thuỵ hiệu: Kính Thiên Xương Vận Kiến Trung Biểu
Chính Văn Vũ Anh Minh Khoan Nhân Tín Nghị Duệ Thánh Đại Hiếu Chí Thành
Hiến Hoàng đế.
Tên húy là tên cha mẹ đặt cho, đối với bậc vua chúa đây là những chữ
phải kỵ. Việc kỵ húy nghiêm ngặt tới mức tất cả các anh em của Ung Chính
đều phải đổi chữ Dận vốn có trong tên thật thành chữ Doãn sau khi hoàng
tử Dận Chân đăng quang.
Hoặc ở Việt Nam, tên húy của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, nên
chữ Hồng phải đọc chệch thành Hường, chữ Nhậm phải đọc chệch thành
Nhiệm. Sĩ tử đi thi nếu phạm húy không những bị đánh trượt mà còn có thể
bị xử phạt nặng.
Miếu hiệu là danh hiệu dùng trong tông miếu (để thờ
trong thế miếu) mà vua đời sau đặt cho vua đời trước. Miếu hiệu thường
có thứ tự nhất định, chẳng hạn như Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông... Thụy hiệu hiểu đơn giản là danh hiệu bao gồm những chữ tốt đẹp mà vua đời sau đặt cho vua đời trước với mục đích xưng tụng.
Một vị hoàng đế còn tại vị tất nhiên không có miếu hiệu và thụy hiệu.
Những vị vua cuối cùng của các triều đại cũng thường không có miếu hiệu
và thụy hiệu. (Với nhà Thanh, thụy hiệu thường rất dài nhưng trong những
chữ này, chữ cuối cùng là quan trọng nhất và thụy hiệu của hoàng hậu sẽ
bao gồm chữ này. Hoàng hậu tất nhiên không có miếu hiệu mà chỉ có thụy
hiệu, nên nhìn vào thụy hiệu sẽ biết đó là hoàng hậu của vị vua nào.
Chẳng hạn hoàng hậu của vua Ung Chính có thụy hiệu là Hiếu Kính Cung Hòa
Ý Thuận Chiêu Huệ Trang Túc An Khang Tá Thiên Dực Thánh Hiến Hoàng
hậu).
Việc dùng các danh hiệu này như hiện nay không hẳn là do sách vở không
thống nhất mà do tùy vào từng thời kỳ, từng triều đại, loại danh hiệu
được dùng phổ biến nhất cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, đối với các triều Lý, Trần, Lê việc dùng miếu hiệu để chỉ
một vị vua và thời đại gắn với vị vua đó là phổ biến nhất: Trần Nhân
Tông, Lê Thánh Tông...
Điều này cũng phổ biến đối với nhà Đường, nhà Tống của Trung Quốc. Tuy
nhiên, các vua nhà Nguyễn của Việt Nam lại được biết đến phổ biến qua niên hiệu, ví dụ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Bảo Đại...
Việc niên hiệu trở thành danh hiệu phổ biến nhất có lẽ là do nhà
Nguyễn học theo sự thay đổi của nhà Minh và nhà Thanh. Khác với các
triều đại trước, các vua nhà Minh, nhà Thanh và nhà Nguyễn của Việt Nam
chỉ dùng duy nhất một niên hiệu trong toàn bộ thời gian trị vì chứ không
thay đổi liên tục sau một vài năm (ví dụ, Hán Vũ Đế dùng tới 11 niên
hiệu trong 54 năm trị vì).
Miếu hiệu của các vị vua trong những triều đại này rất ít phổ biến,
chẳng hạn ít ai biết Nguyễn Cảnh Tông là vua Đồng Khánh. Cá biệt, với
nhà Hán, thụy hiệu lại là danh hiệu phổ biến nhất dùng để chỉ các vua
(ví dụ Hán Văn Đế, Hán Vũ Đế).
Thụy hiệu của nhà Hán thường rất ngắn, chẳng hạn danh hiệu phổ biến "Hán
Vũ Đế" xuất phát từ thụy hiệu mà ông được truy tặng - Hiếu Vũ Hoàng Đế.
Ít ai nhớ tới miếu hiệu Hán Thế Tông của ông.
Trong bài viết trên, bạn phụ huynh chỉ nêu ra một vài trường hợp nhưng
đó đều là những trường hợp thú vị: "Quang Trung" thực chất là niên hiệu
mà Nguyễn Huệ chọn khi lên ngôi. Ít ai biết miếu hiệu của ông là Thái Tổ, thụy hiệu là Võ hoàng đế.
"Đinh Tiên Hoàng": Sau khi cha con vua Đinh (Bộ Lĩnh) bị hành
thích, vua nhỏ nối ngôi, triều đình rối ren nên không đặt thụy hiệu,
miếu hiệu cho nhà vua. Tiên Hoàng hay Tiên Vương chỉ là cách gọi tôn
kính với một vị vua đã qua đời. Cũng có người cho rằng chữ Tiên là để chỉ vua đầu tiên của nhà Đinh.
Trường hợp của Đinh Tiên Hoàng chưa lạ lùng bằng trường hợp vua Lê
Đại Hành. Chữ "đại hành" vốn dùng cho đế, hậu sau khi qua đời mà chưa
đưa vào lăng tẩm, vì chưa có miếu hiệu, thụy hiệu nên tạm gọi là "đại
hành hoàng đế", "đại hành hoàng hậu". Lê Hoàn qua đời, con là Lê Long
Đĩnh nối ngôi nhưng bất hiếu, không đặt thụy hiệu cho cha. Từ đó, chữ
"đại hành" vốn là thụy hiệu tạm thời lại được dùng vĩnh viễn cho đến
ngày nay.
Nhận xét
Đăng nhận xét