Lương Khải Siêu nói thế thì ai
là bậc hào kiệt? Phải chăng là nhà chính trị kinh bang tế thế? Hay là
nhà anh hùng, nhà quân sự lừng lẫy thường giành chiến thắng trong các
cuộc chiến tranh?
Lương
Khải Siêu (1873-1929) là một nhà hoạt động chính trị và văn hóa nổi
tiếng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ông có gặp nhà cách mạng Phan
Bội Châu tại Nhật Bản năm 1905, hai bên đã bút đàm suốt ngày. Lương Khải
Siêu cùng với thầy là Khang Hữu Vi giúp hoàng đế Quang Tự tạo ra cuộc
chính biến năm Mậu Tuất (1898) nhằm lật đổ Từ Hi Thái Hậu, cải cách mọi
mặt cho Trung Quốc, nhưng thất bại vì sự phản bội của Viên Thế Khải. Hai
thầy trò phải trốn sang Nhật Bản, làm báo, hô hào cải cách chính trị.
Sau Cách Mạng Tân Hợi (1911), hai ông
trở về nước tiếp tục hoạt động chính trị. Từ năm 1919, Lương Khải Siêu
rời bỏ chính trường, chuyên dạy học, viết sách, hoạt động văn hóa tại
Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, đến khi qua đời. Tác phẩm của ông bao gồm
nhiều lĩnh vực : Triết học, Tông giáo, Sử học, Tiểu thuyết, Tuồng, Thơ
văn. Dưới đây xin giới thiệu một bài có liên quan đến Phật giáo ở mức độ
cốt lõi nhất. Bài Duy Tâm của ông.
DUY TÂM - LƯƠNG KHẢI SIÊU
Cùng một đêm trăng, nếu có tiệc quỳnh
chén vũ, giọng ca trong trẻo, điệu múa khéo lạ, rèm thêu hé mở, tay
trắng dắt nhau, thì niềm vui có thừa; nếu là kẻ làm ăn khó nhọc, người
đàn bà ưu tư, ngồi một mình trước bóng, tiếng dế kêu vang vách, lá phong
rụng quanh thuyền, thì nỗi đau thương có thừa.
Cùng trong một cơn mưa gió, nếu là vài
ba người tri kỷ, bên lò vây, trong nhà cỏ, bàn chuyện xưa nay, uống
rượu đánh kiếm thì hứng thú có thừa; nếu là người khách cô độc đi xa,
lếch thếch nơi đầu ngựa, hơi núi lạnh thấm da, rạch nước chảy hư trục xe
thì mối buồn có thừa.
“Trăng lên đầu cành liễu, người hẹn
sau hoàng hôn”, (Nhân Ước Hoàng Hôn Hậu của Âu Dương Tu và “Không nỡ
nghe tiếng cuốc kêu rời rạc. Trời sắp hoàng hôn. Mưa đập hoa lê, đóng
kín cửa”, (Ức Vương Tôn Xuân của Lý Trọng Nguyên cùng là hoàng hôn, mà
một đằng thì vui vẻ, một đằng thì thảm sầu, cảnh khác xa nhau.
Nhân Ước Hoàng Hôn Hậu - Âu Dương Tu - Thái Hạnh Quyên hát (dùng trình duyệt Google Chrome để mở)
“Nước chảy đào trôi ra viễn xứ, Đất
trời riêng biệt khác nhân gian” (Đào hoa lưu thủy (桃花流水) tiểu thuyết của
Vô Xứ Khả Đào (無處可逃) và “Mặt ai nay ở đâu rồi, Hoa đào năm ngoái còn
cười gió đông” (Đề Tích Sở Kiến xứ (題昔所見處) của Thôi Hộ (崔護).Cùng là hoa
đào mà một đằng thì thanh tĩnh, một đằng thì luyến ái khác xa nhau.
“Tàu bè muôn dặm, cờ tán rợp trời, rót
chén rượu đứng trên mặt sông cầm ngang ngọn giáo ngâm thơ” (Tiền Xích
Bích Phú (前赤壁賦) của Tô Thức (蘇軾) và ” Bến Tầm Dương canh khuya đưa
khách, Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu, Người xuống ngựa khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty” (Tỳ Bà Hành (琵琶行) của Bạch Cư Dị
(白居易). Cùng là sông, cùng là thuyền, cùng là rượu mà một đằng thì hùng
tráng, một dằng thì tiêu điều, cảnh khác xa nhau.
Tiền Xích Bích Phú – Tô Thức – Việt dịch
Giới thiệu Toàn thi Tỳ Bà Hành – Việt dịch
Thế thì trong thiên hạ há có vật cảnh sao? Chỉ có tâm cảnh mà thôi.
Đeo kính màu lục, thì những vật trông
thấy đều màu lục; đeo kính màu vàng, thì những vật trông thấy đều màu
vàng; miệng ngậm hoàng liên, thì những thức ăn đều đắng; miệng ngậm mật
kẹo, thì những thức ăn đều ngọt : mọi vật thực ra đều lục sao, vàng sao,
đắng sao, ngọt sao? Mọi vật không phải lục, không phải vàng, không phải
đắng, không phải ngọt; mọi vật thì lục, thì vàng, thì đắng, thì ngọt;
mọi vật đúng lục, đúng vàng, đúng đắng, đúng ngọt. Thế thì lục, vàng,
đắng, ngọt khác nhau không tại vật mà tại ta, cho nên nói rằng: “Ba cõi
chỉ là Tâm”.
Có hai vị tăng nhân gió thổi bay tung
lá phướn của nhà chùa, cùng nhau bàn luận. Một vị nói rằng gió động, một
vị nói rằng phướn động; phân biệt, gạn hỏi quẩn quanh, không quyết định
nổi. Lục tổ đại sư nói rằng: “Không phải là gió động, không phải là
phướn động, tâm các ông tự động”. Nhiệm công này cho rằng: một câu nói
đó có thể tỏ rõ được cái chân lý “Tam giới duy Tâm”.
Những vật trong khoảng trời đất, một mà là vạn, vạn mà là một.
Núi là núi, sông là sông, xuân là
xuân, thu là thu, gió là gió, trăng là trăng, hoa là hoa, chim là chim,
muôn đời không đổi, không chỗ nào là không giống nhau. Nhưng có trăm
người ở chốn này, cùng nhận cái cảm xúc của núi này, sông này, xuân này,
thu này, gió này, trăng này, hoa này, chim này mà tâm cảnh của họ hiện
ra trăm vẻ; ngàn người cùng nhận cái cảm xúc ấy, nhưng tâm cảnh của họ
hiện ra ngàn vẻ; ức vạn người cho đến vô số người cùng nhận cái cảm xúc
ấy, nhưng tâm cảnh của họ hiện ra ức vạn cho đến vô số vẻ. Vậy thì muốn
nói vật cảnh thực là trạng thái nào, biết theo ai?
Người nhân trông thấy thì bảo là nhân,
người trí trông thấy thì bảo là trí, người lo trông thấy thì bảo là lo,
người vui trông thấy thì bảo là vui. Cái mà ta trông thấy chính là chân
tướng của cái cảnh mà ta nhận được, cho nên nói rằng chỉ có cải cảnh do
tâm tạo ra là chân thực.
Vậy muốn giảng về cái đạo dưỡng tâm,
có thể biết được phải theo đâu mà làm. Người học trò nơi làng xóm tiêu
điều có được một căn nhà thì kinh ngạc, mừng vui khôn siết; ở địa vị con
em nhà dòng dõi mà trông, thì có gì đáng kể? Đứa ăn mày bắt được trăm
tiền ở ngoài đường thì mang đi kiêu căng với người khác; ở vào địa vị
nhà giàu có mà trông, thì có gì đáng kể? Đạn lạc bay vút qua mặt, người
thường thấy thế thì biến sắc; ở vào địa vị bậc lão tướng đã từng đánh
trăm trận mà trông, thì có gì đáng kể? Một giỏ cơm ăn, một bàu nước
uống, ở nơi ngõ hẻm, người ta không chịu nổi lo buồn; ở vào địa vị của
kẻ sĩ hữu đạo mà trông, thì có gì đáng kể?
Những cảnh trong thiên hạ không cảnh
nào không đáng vui, đáng lo, đáng sợ, đáng mừng; thực không cảnh nào
đáng vui, đáng lo, đáng sợ, đáng mừng; vui, lo, mừng, sợ, hoàn toàn là
do ở lòng người; nên có câu rằng: “Trong thiên hạ vốn không có sự gì;
những người mê muội tự làm cho rắc rối”. Cảnh thì giống nhau, thế mà ta
chợt vui, chợt lo, vô cớ mà sợ, vô cớ mà mừng làm chi? Như những con
ruồi trông thấy cửa sổ dán giấy đua nhau xuyên thủng, như con mèo bắt
bóng cây nhảy nhót, như con chó nghe tiếng gió sủa loạn, đưa cuộc đời
vào trong chốn rối bời những sợ, mừng, lo, vui làm chi? Như thế là biết
có vật mà không biết có mình. Biết có vật mà không biết có mình, thế gọi
là mình bị vật sai khiến, cũng gọi là “nô lệ trong lòng”.
Vì thế bậc hào kiệt không có niềm kinh
lớn, không có nỗi mừng lớn, không có nỗi khổ lớn, không có niềm vui
lớn, không có mối lo lớn. Những bậc đó sở dĩ làm được như thế, há có
thuật nào khác đâu? Cũng chỉ là hiểu rõ cái chân lý “tam giới duy tâm”
mà thôi, biết trừ diệt tên nô lệ trong lòng mà thôi.
Nếu hiểu được ý nghĩa ấy thì ai ai cũng đều có thể là hào kiệt.
Ý nghĩa! Rất hay
Trả lờiXóaĐúng rồi. Anh đọc bài này lúc học cấp 3
Xóa