Một ngày nọ, Đại Lỗi đang tháp tùng vua nước Ngụy đi săn trên thảo nguyên thì cả hai tình cờ phát hiện một con ngỗng trời đang bay phía trên đầu. Đại Lỗi nói:
– Bẩm bệ hạ, thần không cần tên, thần chỉ cần giương cây cung không mà bắn là con chim này sẽ rơi xuống và chết.
Vua nước Ngụy nói:
– Khanh có thể làm được thật chứ?
Đại Lỗi nói:
– Bẩm, thần có thể.
Nói dứt lời, Đại Lỗi bèn giương cung của ông ta lên, kéo căng dây nhắm vào con chim đang bay và giả vờ bắn “pạch” – tiếng dây cung khô khốc vang lên, lập tức con chim lớn lảo đảo rồi rơi xuống đất ngay trước mặt nhà vua.
Ngụy Vương kinh ngạc thốt lên:
– Thật tài tình! Khanh đã không dùng đến tên, làm thế nào mà con chim đó lại có thể chết vậy?
Đại Lỗi nói:
– Bẩm bệ hạ, bởi vì đây là một con chim đã bị thương.
Vua liền hỏi:
– Làm sao mà khanh biết được điều đó?
Đại Lỗi đáp:
– Thần thấy con ngỗng hoang này bay khá chậm và tiếng kêu của nó thật thảm thương; bay chậm là vì nó đã bị thương bởi một mũi tên trước đó, còn âm thanh thê lương của nó nói cho thần biết được rằng nó đang sợ hãi vì đã bị tách khỏi đàn. Bởi vậy khi nó nghe thấy tiếng dây cung bật, nó trở nên hoảng sợ và cố gắng bay cao hơn, vết thương cũ của nó bị toác ra, cộng thêm sợ hãi và kiệt sức nên nó rơi xuống đất.
Kể từ đó, người ta thường sử dụng thành ngữ “Kinh cung chi điểu” hay một thành ngữ biến thể khác là: “Chim sợ cành cong” để mô tả người đã từng gặp những tình huống bị tổn thương và làm cho sợ hãi thì thường sẽ trở nên hoảng sợ hay nghi hoặc khi gặp phải một tình huống, hoàn cảnh tương tự (mà trước đó đã từng xảy ra). Ngạn ngữ Phương Đông có câu: “Một lần bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng” cũng là nhằm chỉ ý này.
Trong “Thế thuyết tân ngữ” cũng có kể một câu chuyện tương tự, liên quan đến việc: “Sợ bóng sợ gió” như sau:
Vị cận thần tên Mãn Phấn của Tấn Vũ Đế rất sợ lạnh, đặc biệt là cái lạnh giá thấu xương của gió đông. Có một lần vừa lúc anh ta vào cung tiếp kiến Vũ Đế thì nhìn thấy cảnh gió thổi tuyết rơi bên ngoài cửa sổ. Dù biết rõ cửa sổ nơi bảo điện rất dày, sẽ không bị gió tuyết lùa vào, nhưng Mãn Phấn vẫn không khỏi rùng mình sợ lạnh.
Vũ Đế thấy vậy liền cười anh ta, Mãn Phấn xấu hổ trả lời: “Thần giống như trâu nước Ngô, chỉ cần thấy ánh trăng là thở hồng hộc ngay”.
Trâu nước Ngô vốn sinh sống ở lưu vực sông Hoài và sông Trường Giang, loài trâu này sinh ra vốn đã sợ nóng, cho nên vào mùa hè thích ngâm mình trong dòng nước mát mẻ; nó chỉ cần thấy mặt trời thì toàn thân sẽ nóng lên, liên tục thở gấp; bởi vậy mà ngay cả đôi khi nhìn thấy ánh trăng trong đêm chúng cũng lầm tưởng là mặt trời, thân nhiệt lại tăng cao, hoảng sợ đến nỗi thở hồng hộc.
Từ hiện tượng “Ngô ngưu suyễn nguyệt” (Trâu nước Ngô nhìn thấy trăng liền thở hổn hển) mà dân gian mới truyền tụng nên câu thành ngữ: “Sợ bóng sợ gió” dùng để ví von về sự việc: con người ta khi nhìn thấy một cái gì đó tương tự thứ mà bản thân từng sợ hãi thì cũng sẽ nảy sinh nỗi kinh sợ lớn trong lòng.
Giải thích
惊弓之鸟 – Kinh cung chi điểu
Ở đây, kinh (惊: trong các từ như 惊骇- kinh hãi、惊慌- hoảng loạn) – có nghĩa là sợ. Cung (弓: trong từ 弓箭: cung tên) – cây cung. Chi (之: là trợ từ, dùng ở giữa định ngữ và trung tâm ngữ, tạo thành một cụm danh từ) – của. Điểu 鸟 – có nghĩa là chim, chỉ loài chim.
Giản thể: 惊弓之鸟 /jīnggōngzhīniǎo/
Phồn thể: 驚弓之鳥 /jīnggōngzhīniǎo/
Ý nghĩa:
Nghĩa đen: Con chim bị trúng tên một lần, sợ cả tiếng dây cung.
Nghĩa bóng: Người đã bị nạn một lần, chết hụt một lần, hoặc đã bị một việc nào đó làm cho kinh hoàng, thì sẽ trở nên bấn loạn, hoang mang, sợ hãi khi gặp tình huống tương tự xảy ra từ trước đó.
Nhận xét
Đăng nhận xét