Hoành phi là một bộ phận tất yếu của các công trình kiến trúc thời kỳ cổ đại, được ví như đôi mắt của công trình kiến trúc đó.
Từ ‘hoành phi’ nguyên nghĩa là bảng nằm ngang với ‘hoành’ là ngang, ‘phi’ là phô bày. Vào thời cổ đại, người ta thường treo hoành phi tại các vị trí trang trọng bên ngoài các gian thờ tại đình chùa, từ đường… Nội dung các bức hoành phi là thể hiện lòng tôn kính với tổ tông, bề trên, thần thánh, v.v. Trên đó có các câu phổ thông như: “Dữ nhật nguyệt” – Mãi sáng với mặt trăng, mặt trời; “Hộ quốc tí dân” – Bảo vệ đất nước, che chở nhân dân. “Tích thụ kim hoa” – Cây xưa nở hoa nay, v.v.
Nội dung điêu khắc trên các bức hoành phi thường là tứ phú thơ văn và thư pháp. Nó cùng với các công trình kiến trúc nghệ thuật trở thành thể thống nhất, từ chữ viết, điêu khắc, cho đến màu sắc, được coi là tinh hoa văn hóa trong phong tục và tập quán độc đáo của người Hoa Hạ.
Các hoàng đế Trung Hoa đa phần đều là những bậc văn võ song toàn, tài hoa tuyệt đỉnh. Trong đó, thư pháp cũng là niềm đam mê của các vị hoàng đế. Trong lịch sử, ta biết đến rất nhiều tên tuổi của các thư pháp gia hoàng đế như Tống Huy Tông, Đường Thái Tông, Càn Long,… Bút tích của những vị vua yêu thư pháp còn để lại khá nhiều.
Bài viết này mong giới thiệu với độc giả một số bức hoành phi là ngự bút của các hoàng đế nhà Thanh tại khu di tích Cố Cung, đồng thời giải thích để bạn đọc tiện thưởng thức thư pháp và ý nghĩa của những bức hoành phi đó.
Hoành phi “Chính đại quang minh” (cung Càn Thanh)
Cung Càn Thanh nằm trong tổ hợp 3 điện lớn: Càn Thanh, Khôn Ninh và Giao Tất, là chính điện của hoàng cung, cũng là tẩm cung và là nơi xử lý chính sự của mười sáu vị hoàng đế thời Minh – Thanh. Bức hoành phi “Chính đại quang minh” là ngự bút của vua Thuận Trị.
“Càn” là trời, “Khôn” là đất, trời đất giao hòa thì gọi là “Giao Tất”. “Càn” biểu thị cho trời đất to lớn (chính đại), mặt trăng mặt trời rực rỡ (quang minh) là tượng trưng cho quyền lực tối cao, có thể thi hành đạo của Thiên Địa, nhật nguyệt. Vì thế bức hoành phi viết 4 chữ: “Chính đại quang minh”.
“Chính đại quang minh” cũng là câu nói xuất xứ từ câu: “Chí nhược phạm công chi tâm, tắc kỳ chính đại quang minh, cố vô túc oán, nhi quyền quyền (quán) chi nghĩa, thực tại quốc gia” trích trong “Chu Văn Công Văn tập – quyển 38 – Đáp Chu Nghĩa Công” của bậc thầy lý học nổi tiếng thời Chu tên là Chu Hi. Ý nghĩa là lòng giữ sự ngay thẳng, lời nói việc làm nghiêm túc đúng đắn.
Liên quan tới bức hoành phi này còn có câu chuyện về việc tranh đoạt ngôi vị xảy ra vào thời Minh – Thanh. Để làm dịu mâu thuẫn này, bắt đầu từ thời Ung Chính đã áp dụng biện pháp cất giữ bí mật. Khi các bậc thiên tử còn tại thế, họ không công khai lập thái tử mà bí mật lập hai bản di chiếu để lựa chọn người kế thừa vương vị. Một bản để bên cạnh hoàng đế, bản còn lại để trong “Kiến trữ hạp” đặt phía sau bức hoành phi “Chính đại quang minh”. Sau khi hoàng đế băng hà, các quan đại thần sẽ lấy bức di chiếu trong “Kiến trữ hạp” ra đối chiếu với di chiếu mà hoàng đế luôn mang bên mình, sau khi đối chiếu chính xác mới công bố người kế thừa vương vị.
Các vị vua Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang, Hàm Phong đều áp dụng phương pháp này để bảo đảm việc đăng cơ được công chính liêm minh.
Hoành phi “Trung chính nhân hòa” (Điện Dưỡng Tâm)
Từ sau thời Ung Chính, tẩm cung của hoàng đế từ cung Càn Thanh đã được di dời tới điện Dưỡng Tâm. Bức hoành phi “Trung chính nhân hòa” nơi đây chính là ngự bút của Hoàng đế Ung Chính.
Ý nghĩa của bức hoành phi là mong muốn các bậc đế vương luôn phải chính trực trung dung, nhân ái dịu hoà. Đây cũng chính là tiêu chuẩn cao nhất cần có trong hành vi cư xử của các vị hoàng đế.
Hoành phi “Cần chính thân hiền” (Gác Tây Noãn)
Trong điện Dưỡng Tâm, ngai vàng của hoàng đế được đặt tại chính giữa Minh Gian, còn phía tây Minh Gian là Gác Tây Noãn. Trong đó lại được phân thành rất nhiều phòng có thất phòng nhỏ để hoàng đế đọc và phê duyệt tấu chương cũng như bàn bạc chuyện cơ mật với các đại thần. Bức hoành phi “Cần chính thân hiền” được đặt tại nơi đây. Hoành phi này cũng là ngự bút của Hoàng đế Ung Chính.
Ông là vị vua hết mực gắng sức trong công việc, làm hết chức trách thiên tử, thương dân như con. Vì thế tại gác Tây Noãn, ông cho đặt bức hoành phi “Cần chính thân hiền” để thể hiện yêu cầu nghiêm khắc đối với bản thân trong suốt đời làm vua của mình, đồng thời để răn dạy những thế hệ kế tiếp.
Giải thích
- Cố Cung: hay còn gọi là Tử Cấm Thành, là hoàng cung của triều nhà Minh và nhà Thanh trong lịch sử Trung Hoa.
- Càn Thanh Cung: Càn Thanh Cung và Khôn Ninh Cung là tẩm cung của Hoàng đế và Hoàng hậu
về mặt ý nghĩa truyền thống. Càn và Khôn là hai quẻ trong Chu Dịch, đại diện cho trời và đất. Trong chương 3 của Đạo đức kinh có chép: "Thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh", ghép lại thành "Càn Thanh Khôn Ninh"
Nhận xét
Đăng nhận xét