Chuyển đến nội dung chính

Lịch sử về tước hiệu công chúa từ thời Châu đến thời nhà Hán

Hôm nay mình đọc được 1 đoạn nói về tước hiệu công chúa khá hay, nên tổng hợp lại chia sẽ cho mọi người tham khảo. Nếu bạn là 1 người yêu thích lịch sử Trung Quốc thời Tiên Tần và Tiền Hán, chắc chắn sẽ thấy rất thú vị.

Công chủ

公主 (gung1 zyu2), Công Chủ, ở Việt Nam gọi là Công Chúa.
Sách Công Dương truyện thời Chiến Quốc có chép: "Thiên tử gả con gái cho chư hầu, tất phải do chư hầu cùng họ làm chủ hôn".
Sách Sự vật khởi nguyên bổ túc thêm: "Thiên tử gả con gái, từ Tần Hán đến nay, đều do Tam Công làm chủ, nên gọi Công chủ". Từ "Chủ"; 主, sang Tiếng Việt, còn được phiên âm thành "Chúa", vì vậy từ Công chủ cũng được biến âm ở Việt chủ yếu thành Công chúa. 

Lịch sử

Nhà Châu

Trước thời Châu, hệ thống giai tầng xã hội chưa hoàn thiện, các xưng hiệu chưa rõ ràng. Đến đời Châu thiên tử, các vị Thiên tử xưng Vương, vốn họ Cơ, vì vậy con gái Châu vương được gọi là Vương Cơ (王姬). 

Trường hợp với các nước chư hầu

Các con gái của các vị vua nước chư hầu đều được gọi là Nữ công tử, trong đó họ hoặc được gọi bằng khuê danh

Ví dụ: Công tử Khuynh con gái của Nguỵ Văn hầu, 

Hoặc được gọi kết hợp thị và tính tương tự các Vương Cơ, 

Ví dụ: 

  • Các đích thê Vương Cơ (thuộc vương tộc họ Cơ), 
  • Sái Cơ (thuộc Sái thị họ Cơ), 
  • Từ Doanh (thuộc Từ thị họ Doanh) của Tề Hoàn công, 
  • Triệu Trang Cơ, con Tấn Văn công (gọi theo thị của chồng là Triệu Sóc).

Đến thời Chiến Quốc, các chư hầu đều xưng Vương, con gái các vua chư hầu đầu xưng là Công chúa, cũng có khi là Quân chúa (君主), riêng con gái Châu vương vẫn xưng là "Vương Cơ" đến khi triều Châu kết thúc. Khi nhà Tần diệt nhà Châu, Vương thị bị phế bỏ, do đó danh hiệu Vương Cơ cũng không còn. Bấy giờ, do vương thất nước Tần đều mang họ Doanh, nên con gái trong vương thất được gọi là Tần Doanh, những vị có thuỵ hiệu được gọi tên ghép hiệu với chữ Doanh như Hoài Doanh, Văn Doanh... Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, phong hiệu cho các Hoàng nữ vẫn chưa được ghi chép rõ. 

Tuy vậy, do ảnh hưởng từ thời nhà Châu, phụ nữ Trung Quốc từ thời Châu đến đầu đời Hán thường được chép tên hiệu với từ Cơ ghép phía sau như Ly Cơ, Triệu Cơ (thời Tần), Ngu Cơ (mạt Tần)... 

Thời Bắc Tống, Tư Mã Quang có chép rằng các con gái của Tần Thủy Hoàng có được gọi là Công chúa

Tây Hán

Sang đầu thời Tây Hán, chế độ sách phong, tấn phong và đãi ngộ cho con gái và cháu gái Hoàng đế được hình thành. Theo đó, các Hoàng nữ xưng là Công chúa, con gái các Vương (gọi là Vương nữ) thì xưng là Ông chúa hoặc Vương chúa (王主).

Đồng thời, bởi vì tư liệu lịch sử khuyết thiếu, cảnh ngộ của công chúa triều đầu Tây Hán cho đến nay vẫn là vấn đề khó lý giải. Công chúa đầu tiên được sử liệu ghi chép là Lỗ Nguyên công chúa, con gái của Hoàng đế khai quốc nhà Hán Lưu Bang. Tuy nhiên, "Lỗ Nguyên" bị tranh cãi là thụy hiệu được đặt sau này và không phải phong hiệu khi ấy của bà. 

Đời Hán Văn Đế, từ khi Trưởng nữ Lưu Phiêu là người đầu tiên chính thức được phong hiệu Công chúa, thì danh xưng Công chúa bắt đầu có quy phạm, đều theo kiễu Mỗ mỗ công chúa; 某某公主. Nói Mỗ mỗ, tức là Mỗ mỗ huyện, các Công chúa đều lấy tên thực ấp mà gọi, như Lưu Phiêu là Quán Đào công chúa, theo thực ấp của Công chúa là huyện Quán Đào. 

Ngoài ra, khi sắc phong thì Lưu Phiêu được gọi là Trưởng công chúa (長公主; giản xưng Trưởng chúa), khi sang thời Hán Vũ Đế trở thành Đại Trưởng công chúa (大長公主; giản xưng Đại chúa). Căn cứ theo Hậu Hán thư - Hoàng hậu kỷ có viết:"Hán chế, Hoàng nữ tắc phong Huyện công chúa, nghi phục ngang Liệt hầu. Những người được coi trọng, gia hiệu Trưởng công chúa, nghi phục ngang Phiên vương". Lúc này, con gái cả do Trung cung sinh ra của Hoàng đế, theo lệ sẽ được phong Trưởng công chúa, địa vị ngang với Chư hầu Vương. 

Ngoài ra, Hoàng đế cũng có thể gia phong tước vị Trưởng công chúa cho chị mình, như Hán Vũ Đế gia phong Bình Dương công chúa, hay Hán Chiêu Đế phong chị mình phong hiệu là Cái Trưởng công chúa (蓋長公主). Khi các Công chúa được gả cho bậc tước Hầu, phong hiệu của Công chúa đó sẽ đổi theo phong hiệu của chồng. 

Ví dụ: Dương Tín công chúa, con gái của Hán Cảnh Đế, khi được gả cho Bình Dương hầu Tào Thì, phong hiệu của bà được cải thành Bình Dương công chúa (平暘公主). 

Do tước hiệu Công chúa không có tính thế tập, nên vẫn xảy ra trường hợp 2 công chúa có cùng phong hiệu (ở những thời điểm khác nhau), như trường hợp phong hiệu Quán Đào công chúa từng được phong cho Lưu Phiêu (con gái Hán Văn Đế) và Lưu Thi (con gái Hán Tuyên Đế). 

Hoặc có trường hợp phong hiệu gây nhầm lẫn với liệt hầu khác như Dương Tín công chúa với Dương Tín hầu. Bên cạnh đó, Hậu Hán thư cũng ghi, con trai của của Hoàng nữ được phong Công chúa, đều tập phong tước của mẹ liệt vào tước Hầu. 

Chú thích

Tam công (chữ Hán: 三公) dùng để chỉ ba chức quan cao cấp nhất trong triều đình phong kiến tại các nước Á Đông như Trung Quốc và Việt Nam. Chức vị chi tiết từng bộ ba này thay đổi theo từng thời đại mà không cố định.
Tam công có xuất xứ từ nhà Châu, gồm ba chức quan là Thái sư, Thái phó (太傅) và Thái bảo (太保). Thời Tây Hán, thiết trí Thừa tướng, Thái úy và Ngự sử đại phu (御史大夫); sau lại sửa thành Đại tư đồ (大司徒), Đại tư mã (大司马) và Đại tư không (大司空). Đến thời Đông Hán, các chức danh này được đổi tên thành [Thái úy; 太尉]; [Tư đồ; 司徒] cùng [Tư không; 司空], được gọi là "Tam tư", vị trí dưới Thái phó, khi ấy xưng gọi Thượng công (上公).
Công tử (chữ Hán: 公子) vốn là danh từ kính xưng chỉ con trai và con gái của quân chủ chư hầu nhà Châu thời Xuân Thu–Chiến Quốc. Đầu thời Xuân Thu, con trai của quân chủ chư hầu làm Đại phu (大夫) và được gọi là Công tử
VD: Công tử Trùng Nhĩ, con trưởng của Tấn Hiến Công, 1 vị vua chư hầu thời Xuân Thu

Nguồn: Wikipedia

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi

Hán Việt:  Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi (情人眼里出西施 - cing4 jan4 ngaan5 leoi5 ceot1 sai1 si1) Dịch nghĩa : trong mắt kẻ si tình, người tình luôn đẹp nhất. Chú thích: Tây Thi (chữ Hán: 西施 - sai1 si1 ), còn gọi là Tây Tử (西子), là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là Trầm ngư (沉魚).  

Thiên nhược hữu tình - Nếu trời xanh có tình

Tháng tám, năm Thanh Long nguyên niên đời Ngụy Minh Đế, vua hạ chiếu sai các quan trong cung dùng xe về phía tây, đem tượng tiên nhân cầm mâm vàng hứng sương của Hán Vũ Đế, về đặt trước cung điện, các cung quan làm gãy mâm, khi xe chuẩn bị kéo đi, tượng tiên nhân bỗng nhiên ngậm ngùi nhỏ lệ. Cháu trong hoàng tộc nhà Đường là Lý Trường Cát bèn làm bài thơ về pho tượng tiên nhân bằng đồng rời cung Hán. Hán Vũ Đế là vị vua hùng tài đại lược, có công trùng hưng Hán thất, đưa Trung Quốc đến buổi hoàng kim. Thuở sinh tiền, do ngạo khí kiêu hùng của bậc đế vương, muốn mình sánh ngang cùng trời đất nên Hán Vũ Đế cho dựng một tượng tiên nhân bằng đồng, hai tay bưng một mâm vàng hứng sương khuya từ mặt trăng rơi xuống để luyện thuốc trường sinh bất lão. Khi Vũ đế qua đời, người ta vẫn hằng đêm nghe tiếng ngựa hý ở nấm mộ của ông ở Mậu Lăng, sáng ra không còn dấu vết. Đến năm Thanh Long thứ nhất (233), Nguỵ Minh Đế Tào Toàn (người kế nghiệp Tào Phi) hạ chiếu cho người kéo tượng đồng...

Thiên kim nan mãi bất hồi đầu

Phiên âm: 千金难买一回头 Dịch nghĩa:  Ngàn vàng không mua được một lần quay đầu sám hối. Lời bình: "có nghĩa là thời khắc qua rồi không lấy lại được,do đó nên biết quý trọng những gì trước mắt, không chỉ những gì trước mắt mà còn những người trước mắt, nếu không khi mất đi có hối cũng muộn rồi.". Một chút lạc đề về phim TVB Mình biết câu này khi xem phim Phong thần bảng của TVB (Đát Kỷ - Trụ Vương). Đây là đoạn sơ lược về câu nói trong phim: Nước mắt của nam nhi chỉ rơi khi họ cảm thấy xứng đáng! Tình mẫu tử là thiêng liêng và vô cùng cao quý. Cho dù con có hư, có ngang bướng cứng đầu ra sao "lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ" nhưng tình máu mủ ruột thịt làm sao mẹ có thể bỏ con được, mẹ vẫn sẽ dõi theo con, đùm bọc và che chở con. "千金难买一回头 - Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu" đến giờ thì con đã hiểu được câu nói ấy mẹ à! Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu có nghĩa là mình không chỉ để ý những gì trước mắt mà còn phải trân trọng những người trư...