Chuyển đến nội dung chính

Thất lễ - Lục Lễ trong nghi thức kết hôn của người Trung Quốc xưa

Giới thiệu

Tương truyền vào thời Tây Châu (西周 - sai1 zau1), phong khí quốc gia không còn thuần hậu, tục cưới xin cũng hỗn loạn. Châu Công là người phò tá Thiên tử chế định lễ giáo, nhận thấy cần phải chế định lễ nghi trong việc cưới xin cho thống nhất. 


Châu Công

Châu Công (周公 - zau1 gung1), sinh năm 1143 TCN, tên thật là Cơ Đán (姬旦-gei1 daan3), còn gọi là Thúc Đán (叔旦-suk1 daan3 ), Châu Đán (週旦-zau1 daan3) hay Châu Văn công (周文公-zau1 man4 gung1), là công thần khai quốc nhà Châu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Châu Vũ vương Cơ Phát lập ra nhà Châu, giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương.

Ông có công trong việc đưa ra chính sách phân phong chư hầu, quy định đẳng cấp và lễ nghi.

Thất lễ

Châu Công đề cập đến bảy bước trong hôn sự gồm:

  1. Nạp thái (納采 - naap6 coi2): Nhà trai nhà gái trao nhau lễ vật.
  2. Vấn danh (問名 - man6 ming4): Nhà trai hỏi tên tuổi nhà gái để bói lành dữ và chọn ngày thành hôn.
  3. Nạp cát (納吉 - naap6 gat1): Trước khi trao sính lễ cho nhà gái, nhà trai cần bói xem điềm lành dữ ra sao rồi đưa lễ cho bên nhà gái, sau đó quyết định ngày lành tháng tốt cử hành hôn lễ.
  4. Nạp trưng (納征 - naap6 zing1): Sau khi đã chọn được ngày lành tháng tốt rồi, nhà trai tiến hành mang sính lễ đến trao cho nhà gái.
  5. Thỉnh kỳ (請期 - cing2 kei4): Sau khi trao sính lễ cho nhà gái, nhà trai bói được ngày lành, nhờ người mai mối đến nhà gái thông báo ngày chính thức thành hôn.
  6. Thân nghênh (迎親 - jing4 can1): Nhà trai đến nhà gái rước tân nương về nhà để tiến hành giao bái.
  7. Đôn luân (敦倫 - deon1 leon4): Giao bái xong, tân lang đưa tân nương vào động phòng, tiến hành nghi thức cuối cùng để chứng minh rằng hai người chính thức trở thành vợ chồng, đó chính là “chuyện ấy”.

Bảy bước đó gọi là "hôn nghĩa thất lễ" và "sĩ hôn nghĩa thất lễ" (7 nghi thức trong việc cưới xin của kẻ sĩ quân tử). Và để rõ hơn, ông cùng với thê tử của mình bèn đích thân diễn và giải thích các nghi lễ đó. Nhưng diễn đến bước cuối cùng là “đôn luân” thì thê tử của Châu Công cự tuyệt không diễn. 

"Đôn luân" tức là "gắng sức đề cao luân lý vợ chồng", cũng có nghĩa là chuyện quan hệ phòng the. Trong tình thế bị thê tử cự tuyệt, ông không biết phải làm thế nào để làm rõ vấn đề này. May sao ông thấy con trai mình là Bá Cầm nghịch chơi mấy quả bầu hồ lô, thử ghép hai nửa quả lại thành một, ông chợt nảy ra ý hay. Hôm sau ông gọi các con cháu của các sĩ quân tử đến lớp và giảng giải về "sĩ hôn nghĩa thất lễ"; giảng đến "đôn luân", ông đem hai nửa quả bầu hồ lô (vốn được cắt từ một quả) lấy làm ví dụ. 

Ý nghĩa là, khi chưa được cắt ra thì vốn là một thể thống nhất, sau khi cắt làm đôi tức là phân biệt nam với nữ, "đôn luân" cũng như là ghép hai nửa quả bầu thành một thể thống nhất vậy. Theo nghi thức thì nam trên nữ dưới, lấy hình tượng trời che đất chở mà hóa sinh vạn vật, âm dương hài hòa, càn khôn có thứ tự, duy trì cương thường mà sinh con sinh cháu. Từ đấy về sau, chuyện hôn sự đều y theo bảy nghi thức trên mà tiến hành, hai mảnh của quả bầu hồ lô vì thế trở thành vật lễ.

Chuyện vợ chồng từ những bước khởi đầu đã cần đến bao nhiêu điển lễ như vậy, còn các bước tiếp theo thì sao? Đã thành vợ thành chồng thì nhất thiết việc giữ gìn và duy trì đạo vợ chồng là điều phải đặt lên hàng đầu, đó chính là cái Châu Công gọi là “đôn luân”. Trong quan niệm của Nho gia, “bách hạnh hiếu vi đại” (trăm đức hạnh thì điều hiếu là to lớn), mà hiếu cũng có nhiều hình thức, trong đó sinh con cái nối dõi tông đường là vô cùng quan trọng. Sinh con cần phải có sự kết hợp của người nam và người nữ, nhưng vốn người khác với thú vật ở chỗ biết hành xử sao cho có lễ. Vì thế mà từ xưa, vợ chồng dù thân nhưng đối đãi không được suồng sã, thậm chí chuyện quan hệ chốn phòng the cũng không ngoài lễ nghĩa.

Đến thời kỳ Xuân Thu, lễ băng nhạc hoại, nghi lễ hôn sự mà Châu Công chế định ra cũng bị phế bỏ, Khổng Tử vì thế mà sửa lại điển lễ. Sửa đến “đôn luân”, Khổng Tử thấy không cần phải đưa nghi thức này vào lễ mà lược bỏ đi, “thất lễ” của Châu Công khi ấy chỉ còn “lục lễ” (6 nghi thức). 

Nhưng trong dân gian vẫn làm theo lệ cũ tương truyền mà vẫn dùng bầu hồ lô trong hôn lễ, Khổng Tử bèn thuận theo ý dân mà lại đưa bầu hồ lô vào trong Lễ, gọi là “hợp cẩn” (Chén cẩn. Cẩn là quả bầu, bổ làm đôi cho cô dâu chú rể mỗi người cầm một nửa rót rượu mời nhau), nhưng lúc này quả bầu không được coi là đồ lễ khí chính thức.

Phùng Mộng Long (馮夢龍; 1574—1646) thời Minh trong cuốn “Cổ Kim Tiếu Sử” có ghi:

“Tiết Xương Tự người thời Đường gặp thê tử của mình luôn luôn có lễ, đầu tiên sai đứa hầu gái đến thông ngôn với thê tử hai ba lần, sau đó cầm đuốc đến phòng, đàm luận những điều cao nhã, uống trà và ăn hoa quả rồi lui. Nếu có muốn ở lại phòng thê tử thì phải thỉnh với thê tử rằng: “Xương Tự coi việc có con nối dõi là đại sự, bèn muốn thử một cuộc gặp gỡ hoan lạc xem sao”. Đợi đứa hầu gái báo lại rằng được thì mới vào, lễ chính là ở chỗ đó.”

Ngày nay không còn cách thức cư xử giữa vợ chồng như vậy nữa, mà thay vào đó là cách thức giáo dục ứng xử trong quan hệ vợ chồng. Nhức nhối hơn cả là vấn đề bạo hành gia đình và quan hệ ngoài luồng. Xưa trọng nam khinh nữ, không sai, tiếng nói của người phụ nữ hầu như không có, nhưng trong đạo nghĩa vợ chồng, phu xướng phụ tùy, gia đình hòa mục luôn được đặt lên hàng đầu. Tôi cũng nhân vì nói chuyện trao đổi với bằng hữu về vấn đề này mà viết mấy dòng tản mạn trên.

Giải thích

Tây Châu (西周 - sai1 zau1): 1046 TCN – 771 TCN: Từ khi Tây Châu đoạt thiên hạ từ Trụ Vương, lập ra nhà Châu. Từ thời Vũ Vương tới thời trước Bình Vương, đóng đô ở Cảo Kinh, sử gọi là Tây Châu ( phân biệt với Đông Châu)

Sĩ hôn nghĩa thất lễ (士婚義七禮 -  si6 fan1 ji6 cat1 lai5) : 7 nghi thức trong việc cưới xin của kẻ sĩ quân tử

Hôn nghĩa thất lễ (婚義七禮- fan1 ji6 cat1 lai5): 7 nghi thức trong việc cưới xin

Cổ Kim Tiếu Sử, còn có tên là Cổ kim sử, Cổ kim tiếu, Cổ tiếu sử, và Cổ kim đàm khái. Trai gái, già trẻ, các giới nghề nghiệp, đẳng cấp khác nhau đều có thể tìm thấy hứng thú riêng của mình trong tác phẩm này. Nó là một bức tranh văn hóa toàn cảnh của xã hội Trung Hoa phong kiến từ nhà Minh về trước. Dưới hình thức hoàn toàn ngắn gọn giản dị đầy hấp dẫn, gần như bạn đang tiếp xúc với một bách khoa kỉ lục sớm nhất của thế giới vậy.

Tham khảo

Bài viết dựa trên trang nguoihieuco (link không còn tồn tại) và một số nguồn tư liệu khác

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi

Hán Việt:  Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi (情人眼里出西施 - cing4 jan4 ngaan5 leoi5 ceot1 sai1 si1) Dịch nghĩa : trong mắt kẻ si tình, người tình luôn đẹp nhất. Chú thích: Tây Thi (chữ Hán: 西施 - sai1 si1 ), còn gọi là Tây Tử (西子), là một đại mỹ nhân trứ danh thời kì Xuân Thu, đứng đầu trong Tứ đại mỹ nhân của lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, Tây Thi có nhan sắc làm cá phải ngừng bơi mà lặn xuống đáy nước, gọi là Trầm ngư (沉魚).  

Thiên nhược hữu tình - Nếu trời xanh có tình

Tháng tám, năm Thanh Long nguyên niên đời Ngụy Minh Đế, vua hạ chiếu sai các quan trong cung dùng xe về phía tây, đem tượng tiên nhân cầm mâm vàng hứng sương của Hán Vũ Đế, về đặt trước cung điện, các cung quan làm gãy mâm, khi xe chuẩn bị kéo đi, tượng tiên nhân bỗng nhiên ngậm ngùi nhỏ lệ. Cháu trong hoàng tộc nhà Đường là Lý Trường Cát bèn làm bài thơ về pho tượng tiên nhân bằng đồng rời cung Hán. Hán Vũ Đế là vị vua hùng tài đại lược, có công trùng hưng Hán thất, đưa Trung Quốc đến buổi hoàng kim. Thuở sinh tiền, do ngạo khí kiêu hùng của bậc đế vương, muốn mình sánh ngang cùng trời đất nên Hán Vũ Đế cho dựng một tượng tiên nhân bằng đồng, hai tay bưng một mâm vàng hứng sương khuya từ mặt trăng rơi xuống để luyện thuốc trường sinh bất lão. Khi Vũ đế qua đời, người ta vẫn hằng đêm nghe tiếng ngựa hý ở nấm mộ của ông ở Mậu Lăng, sáng ra không còn dấu vết. Đến năm Thanh Long thứ nhất (233), Nguỵ Minh Đế Tào Toàn (người kế nghiệp Tào Phi) hạ chiếu cho người kéo tượng đồng...

Thiên kim nan mãi bất hồi đầu

Phiên âm: 千金难买一回头 Dịch nghĩa:  Ngàn vàng không mua được một lần quay đầu sám hối. Lời bình: "có nghĩa là thời khắc qua rồi không lấy lại được,do đó nên biết quý trọng những gì trước mắt, không chỉ những gì trước mắt mà còn những người trước mắt, nếu không khi mất đi có hối cũng muộn rồi.". Một chút lạc đề về phim TVB Mình biết câu này khi xem phim Phong thần bảng của TVB (Đát Kỷ - Trụ Vương). Đây là đoạn sơ lược về câu nói trong phim: Nước mắt của nam nhi chỉ rơi khi họ cảm thấy xứng đáng! Tình mẫu tử là thiêng liêng và vô cùng cao quý. Cho dù con có hư, có ngang bướng cứng đầu ra sao "lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ" nhưng tình máu mủ ruột thịt làm sao mẹ có thể bỏ con được, mẹ vẫn sẽ dõi theo con, đùm bọc và che chở con. "千金难买一回头 - Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu" đến giờ thì con đã hiểu được câu nói ấy mẹ à! Thiên kim nan mãi nhất hồi đầu có nghĩa là mình không chỉ để ý những gì trước mắt mà còn phải trân trọng những người trư...