Tại sao Phật pháp không thể rời khỏi thế gian pháp ? Bởi một lẽ đơn giản là Phật pháp và Thế gian pháp chỉ là hai khái niệm của con người gán ghép vào hai pháp có hình tướng khác nhau chứ thực sự thì hai pháp ấy không có thực thể, không có tự tính, sự phân biệt ấy chỉ là vọng tưởng của con người. Và hai pháp đó không khác nhau. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, mệnh đề Sắc Bất Dị Không nói lên ý ấy. Sắc (vật chất) là thế gian pháp. Không (bản thể bất nhị) là Phật pháp.
Tuy nhiên về mặt tương đối thì Phật pháp và Thế gian pháp khác nhau về hình tướng. Trong bài này chúng ta sẽ phân tích sự khác nhau đó như thế nào và vì những dính líu chặt chẽ như thế nào mà chúng không thể tách rời nhau. Lục Tổ Huệ Năng có bài kệ.
佛法在世间 Phật pháp tại thế gian Phật pháp trên thế gian
不离世间觉 Bất ly thế gian giác Không thể rời thế gian mà giác ngộ
离世觅菩提 Ly thế gian mịch bồ đề Rời thế gian tìm giác ngộ
恰如求兔角 Kháp như cầu thố giác Giống như tìm sừng thỏ
Ý bài kệ muốn nói rằng không có cái pháp xuất thế gian hay Phật pháp riêng biệt ở ngoài pháp thế gian. Cố gắng tìm kiếm sự giác ngộ ở ngoài thế gian chỉ là tốn công vô ích giống như tìm sừng thỏ. Thỏ không bao giờ có sừng nên tìm sừng thỏ chỉ là phí công vô ích.
Chẳng hạn tham thiền đi tới các cảnh giới như Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền hay thậm chỉ tới cảnh giới cao hơn nữa thuộc cõi vô sắc như Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng không thể giác ngộ.
Ví dụ trong Niết Bàn Kinh 涅槃經có kể chuyện về sư Uất Đầu Lam Phất 郁头蓝弗như sau :
有个郁头蓝弗天人,他在山中习定,他在定中,山里头那些鸟鸣,叫唤的声音动了他的心了,他有一念瞋恨心,他说“变成飞狸,把你们都吃掉”。就这一念瞋恨心,但是他修的功果一直到生天,在天上生到非想非非想天,那这时间就很长了。但是在他修定的时候,起了这么一念的瞋恨心,天福尽了,下到人间,他就变了飞狸,专门吃飞鸟。一念恶念,这是佛讲的这么个故事。
Dịch nghĩa
Có một người cõi trời tên là Uất Đầu Lam Phất (Udraka Rāmaputra), ông ta ở trên núi tập thiền định, trong lúc thiền, trên núi có tiếng chim kêu inh ỏi ảnh hưởng tới tâm lý ông ta, ông bèn nổi sân hận, nói, “ta sẽ biến thành loài chồn bay (phi ly 飞狸) ăn thịt hết chúng bây”. Đó là một niệm sân hận, nhưng ông ta tu có thành quả được sinh ở cõi trời. Ông ta được sinh ở cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng (cõi trời cao nhất thuộc vô sắc giới), thời gian ở đó rất lâu dài. Nhưng vì lúc ông ta tu thiền định có khởi niệm sân hận, nên khi tuổi thọ ở cõi trời hết, trở lại thế gian, ông ta biến thành con chồn bay, chuyên bắt chim ăn thịt. Đó là Phật kể câu chuyện về một ác niệm.
Còn việc giác ngộ thì ngay trong cõi thế gian ô trược này cũng có thể giác ngộ như Thích Ca, các vị Tổ Sư, các Thiền sư. Trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc có liệt kê hơn 5000 người kiến tánh, sau Huệ Năng có rất nhiều người kiến tánh chia làm 5 phái lớn : Tào Động tông (曹洞宗, do Động Sơn Lương Giới 洞山良价 và đệ tử là Tào Sơn Bản Tịch 曹山本寂 khai sáng); Vân Môn tông (雲門宗, do Vân Môn Văn Yển 雲門文偃 và pháp tử là Tuyết Phong Nghĩa Tồn 雪峰義存 khai sáng); Pháp Nhãn tông (法眼宗, do Pháp Nhãn Văn Ích 法眼文益 khai sáng); Quy Ngưỡng tông (潙仰宗, do Quy Sơn Linh Hựu 潙山靈祐và đệ tử là Ngưỡng Sơn Huệ Tịch 仰山慧寂sáng lập), Lâm Tế tông ( 臨濟宗 do Lâm Tế Nghĩa Huyền 臨濟義玄 khai sáng).
Những người giác ngộ kiến tánh đó đều sống trên thế gian, hàng ngày họ cũng chỉ mặc áo ăn cơm, gánh nước bửa cũi, cuốc đất trồng rau như người bình thường, thậm chí không nhất thiết phải ngồi thiền như bài kệ của Huệ Năng.
生来坐不卧 Sinh lai tọa bất ngọa Khi sống ngồi không nằm
死去卧不坐 Tử khứ ngọa bất tọa Lúc chết nằm không ngồi
原是臭骨头 Nguyên thị xú cốt đầu Đó vốn là mục xương
何为立功过 Hà vi lập công quá Chứ có công tích gì
Con người thường hay phân biệt hai loại hình tướng mà họ cho rằng hoàn toàn khác nhau, một loại là Phật pháp, Một loại là Thế gian pháp.
Ví dụ : Chùa cảnh, sư ni, kinh kệ, giáo pháp của Phật, Tổ, tụng kinh niệm Phật, giảng kinh thuyết pháp, ngồi thiền, bố thí trì giới, tu hành chứng quả…đó là Phật pháp.
Nhà cửa, bến cảng, phi trường, đường sá, nam nữ, tình cảm, văn nghệ, tiểu thuyết, ăn uống, giải quyết sinh lý, sản xuất, thương mại, xây dựng, chiến tranh, cướp bóc, lừa đảo v.v… là Thế gian pháp.
Hoặc trừu tượng hơn, tu hành chứng quả là Phật pháp, ăn chơi, tìm kiếm sự thỏa mãn các nhu cầu của cuộc sống là Thế gian pháp.
Sự phân biệt như thế chỉ là vọng tưởng của tâm mê muội chấp trước chứ cả hai loại hình tướng đó đều không có thực chất, bởi vì có một nguyên lý chi phối cả hai loại hình tướng đó. Đó là nguyên lý Nhất thiết pháp vô tự tính. Các pháp đã không có tự tính thì sự phân biệt chỉ là gán ghép tâm niệm, quan điểm của một người hay một nhóm người vào đó mà thôi. Nghĩa là chúng ta gán cho cái này là Phật pháp, gán cho cái kia là Thế gian pháp.
Nguồn: https://duylucthien.wordpress.com/2018/05/16/phat-phap-bat-ly-the-gian-phap/
Nhận xét
Đăng nhận xét