Táo quân (灶君) còn được gọi là Táo thần hay Táo công. Đạo giáo Trung Quốc tôn xưng ông là “Cửu Thiên Tư Mệnh Định Phúc Đông Trù Yên Chủ Bảo Táo Hộ Trạch Chân Quân” (九天司命定福东厨烟主保灶护宅真君), bởi thế, trên bàn thờ ông Táo của người Hoa thường đặt bài vị với bốn chữ “Định Phúc Táo Quân” (定福灶君), đó là gọi tắt danh hiệu của ông.
Chữ “táo” (灶) có nghĩa là “nhà bếp”. Cả người Trung Hoa lẫn người Việt Nam đều tôn thờ thần bếp từ rất xưa.
Ở Việt Nam, hình ảnh quen thuộc của Táo quân là hai ông một bà. Vậy Táo quân ở Trung Quốc thì sao?
Thiên “Đạt sinh” trong sách “Trang Tử” viết rằng: 沈有履,灶有髻。 Đất bùn có quỷ Lý, dưới bếp có thần Cát. Tư Mã Bưu chú thích: 髻,灶神,着赤衣,状如美女。 Thần Cát tức Táo quân, mặc áo đỏ, hình dáng như mỹ nữ.
Sách “Lễ khí ký” cũng nói: 灶者,老妇之祭也。 Táo quân là một bà lão được cúng bái.
Bất ngờ không các bạn, hóa ra tạo hình ban đầu của Táo quân Trung Hoa lại là một vị nữ thần!
Đến thời Đường, thiên “Nặc cao ký – thượng” trong “Dậu Dương tạp trở” của Đoàn Thành Thức có ghi chép profile của Táo quân khá hoàn chỉnh:
灶神名隗,状如美女。又姓张名单,字子郭。夫人字卿忌,有六女,皆名察洽。常以月晦日上天白人罪状,大者夺纪,纪三百日,小者夺算,算一百日。故为天帝督使,下为地精。
Táo quân tên Ngỗi, hình dáng như mỹ nữ. Lại có tên khác là Trương Đơn, tự Tử Quách. Phu nhân của ông tự Khanh Kỵ, có sáu người con gái, đều gọi tên là Sát Hiệp. Vào đêm trăng mờ, thần thường lên trời báo cáo tội trạng dưới nhân gian, kẻ phạm tội nặng bị tước niên kỷ 300 ngày, người phạm tội nhẹ thì bị tước 100 ngày. Cho nên Thiên Đế sai thần xuống làm địa tinh.
Ngoài ra còn có một số giả thuyết khác. Có thuyết nói Táo quân là hóa thân của Viêm Đế, có sách lại bảo Táo quân chính là hỏa thần Chúc Dung,…
Do phong tục của mỗi vùng khác nhau nên thần thoại đương nhiên cũng khác nhau, đó là chuyện bình thường.
Hằng năm, vào ngày 23 tháng Chạp, người Việt Nam lại thả cá chép đưa ông Táo về trời. Ở Trung Quốc cũng vậy, người dân cũng tiễn ông Táo về trời vào ngày 23 hoặc 24 tháng Chạp, nghi lễ này được gọi là “tống Táo” (送灶) hay “từ Táo” (辞灶).
Sách “Phong thổ ký” của Chu Xử đời Tấn nói:
腊月廿四日夜祀灶,谓灶神翌日上天,白一岁事,故先一日祀之。
Đêm 24 tháng Chạp tế nhà bếp, vì hôm sau thần bếp sẽ lên trời bẩm báo mọi chuyện trong một năm, cho nên phải cúng bái trước một ngày.
Ở đây, có lẽ Chu Xử đang nói đến phong tục của dân gian, vì người Trung Quốc còn có câu “quan tam, dân tứ, gia ngũ” (官三,民四,家五), ý nói “quan lại cúng ông Táo ngày 23, dân chúng cúng vào ngày 24, còn nhà thuyền cúng vào ngày 25”.
Điểm đáng chú ý là ở Trung Quốc không thả cá chép như Việt Nam, thay vào đó, lễ vật cúng ông Táo gắn liền với hai thứ là mạch nha với dê vàng.
Cúng mạch nha cho ông Táo nhằm mục đích để ông bị dính răng, khi lên trời không thể bẩm báo chuyện xấu của nhà mình với Ngọc Hoàng.
Cúng dê vàng (黄羊) cho ông Táo, mục đích là cầu xin phú quý, phong tục này xuất xứ từ một câu chuyện cổ. Thiên “Phàn Hoành, Âm Thức liệt truyện” trong “Hậu Hán thư” chép rằng:
宣帝时阴子方者,至孝有仁恩。腊月晨炊而灶神形现,子方再拜受庆。家有黄羊,因以祀之。自是以后,暴至巨富…故后以腊月祀灶而荐黄羊焉。
Thời Hán Tuyên Đế, có Âm Tử Phương là người chí hiếu và giàu lòng nhân hậu. Một buổi sáng tháng Chạp, ông đang thổi cơm thì Táo quân xuất hiện, Tử Phương vái lạy cầu xin thần ban phúc. Trong nhà có con dê vàng, nhân đó đem cúng tế Táo quân. Về sau, Tử Phương giàu to… Từ đó cứ đến tháng Chạp, khi cúng tế Táo quân, hậu nhân lại dâng dê vàng.
Hiện tại, dê vàng không dễ gì kiếm được, do đó tập tục này không còn phổ biến nữa, người Trung Quốc cúng Táo quân chỉ dùng mâm cơm gà, kẹo mạch nha và bộ áo giấy mà thôi.
Hôm nay đã là 23 Tết, năm mới đang đến rất gần rồi!
Chúc các bạn có những ngày giáp Tết thật vui vẻ và đầm ấm nhé!
Hình: Táo quân, lấy từ cuốn “Thần thoại và truyền thuyết Trung Hoa” (1922) của Edward T. C. Werner.
Bài vị
Chữ Hán: 請奉
Hán Việt: Thỉnh Phụng
Tiếng Việt: Kính cẩn thờ phụng.
Dòng chữ lớn ở giữa:
Chữ Hán: 定福灶君
Hán Việt: Định Phúc Táo Quân
Tiếng Việt: Thần Táo Quân định đoạt phúc lộc.
Dòng chữ bên trái (dọc):
Chữ Hán: 無私可達天
Hán Việt: Vô tư khả đạt thiên
Tiếng Việt: Không tư lợi mới có thể thông đạt lên thiên đình.
Dòng chữ bên phải (dọc):
Chữ Hán: 有德能司大
Hán Việt: Hữu đức năng tư đại
Tiếng Việt: Có đức mới xứng đáng quản lý việc lớn.
Dòng chữ dưới cùng (ngang):
Chữ Hán: 光之命司
Hán Việt: Quang Chi Mệnh Tư
Tiếng Việt: Người cai quản ánh sáng và số mệnh (ám chỉ Táo Quân là thần hộ mệnh cho bếp núc, giữ sự ấm no của gia đình).
Nhận xét
Đăng nhận xét